Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn luyện từ và câu ở Lớp 4

A/ PHẦN MỞ ĐÀU

I. LÝ DO CHỌN CHUYÊN ĐỀ :

Môn tiếng việt trong chương trình bậc tiểu học nhằm hình thành và phát triển giúp học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói,đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Giúp học sinh có cơ sở tiếp thu kiến thức ở các lớp trên. Trong bộ môn tiếng việt (nghe, đọc, nói, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Giúp học sinh có cơ sở để tiếp thu kiến thức ở các lớp trên. Trong bộ môn Tiếng Việt phân môn luyện từ và câu có một nhiệm vụ cung cấp nhiều kiến thức sơ giản về Viết Tiếng Việt và rèn luyện kỹ năng dùng từ đặt câu (nói - viết) kỹ năng đọc cho học sinh. Cụ thể là:

1-Mở rộng hệ thống hoá vốn từ trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về từ và câu.

2- Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng dùng từ đặt câu và sử dụng dấu câu

3-Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng nói và viết thành câu, có ý thức sử dụng Tiếng Việt văn hoá trong giáo tiếp.

 

doc20 trang | Chia sẻ: thetam29 | Ngày: 22/02/2022 | Lượt xem: 311 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn luyện từ và câu ở Lớp 4, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 nhằm tăng cường kĩ năng suy nghĩ sáng tạo trong quá trình lĩnh hội tri thức và xác định mức độ hiểu bài cũng như kinh nghiệm đã có của học sinh. Giúp các em hình thành khả năng tự lực tìm tòi kiến thức. Qua đó học sinh ghi nhớ tốt hơn sâu sắc hơn. 
Yêu cầu khi sử dụng giáo viên phải lựa chọn những câu hỏi theo đúng nội dung bài học, câu hỏi đưa ra hải rõ ràng dễ dàng phù hợp với mọi đối tượng học sinh trong cùng 1 lớp. Giáo viên dành thời gian cho học sinh suy nghĩ. Sau đó cho học sinh trả lời các em khác nhận xét bổ sung. Phương pháp này phù hợp với cả 2 loại bài lý thuyết thực hành 
VD: Khi dạy bài danh từ (Tuần 5) mục địch của bài là học sinh phải nằm được danh từ gì - Biết tìm danh từ trừu tượng trong đoạn văn và đặt câu với danh từ đó. 
- Đưa VD: 
Mang theo chuyện cổ tôi đi
Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng mưa
Con sông chảy có rặng dừa nghiêng soi
Đời cha ông với đời tôi
Như con sông với chân trời dã xa
Chỉ còn truyện cổ thiết tha
Cho tôi nhặt một ông tra của mình.
+ H: Em tìm những TN chỉ sự vật trong đoạn thơ? 
Dòng 1: Truyện cổ 	Dòng 5: Đời, cha ông 
Dòng 2: Cuộc sống, tiếng xưa 	Dòng 6: Con sông chân trời 
Dòng 3: Cơn nắng, cơn mưa 	Doàng 7: Truyện cổ 
Dòng 4: Con sống, rặng dừa. 	Dòng 8: Ồng cha 
+ H: Sắp xếp các từ vừa được theo nhóm 
- Từ chỉ người	: Ông cha - Cha ông 
- Từ chỉ vật	: sông, dừa, chân trời 
- Từ chỉ hiện tượng	: mưa, nắng 
- Từ chỉ khái niệm	: Cuộc sống, truyện cổ, tiếng xưa, đời 
- Từ chỉ đơn vị	: Cơn, con, răng. 
+ H: Những từ đó thuộc loại từ gì? (danh từ)
+ H: Vậy danh từ là gì? (Danh từ là những từ chỉ sự vật: người, vật, hiện tượng, khái niệm hoặc đơn vị) 
Vậy qua 4 câu hỏi gợi mở cho các em đã kết thúc một khái niệm nghữ pháp mà nội dung của bài đề ra. 
* Tóm lại phương pháp gợi mở vấn đáp được sử dụng trong tất cả tiết học và phát huy được tính chủ động sáng tạo của học sinh. 
2. Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề. 
Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề là giáo viên đưa ra những tình huống gợi vấn đề điều khiển học sinh phát hiện vấn đề hoạt động tự giác trực chủ động và sáng tạo để giải quyết vấn đề thông qua đó mà kiến tạo tri thức rèn luyện kỹ năng. 
Tăng thêm sự hiểu biết và khả năng áp dụng lý thuyết vào giải quyết vấn đề của thực tiến. Nâng cao kỹ năng phân tích và khái quát từ tình huống cụ thể và khả năng độc lập cũng như khả năng hợp tác trong quá trình giải quyết vấn đề. 
Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên cần chuẩn bị trước câu hỏi sao cho phù hợp với mục đích, yêu cầu và nội dung của bài đảm bảo tính sư phạm, đáp ứng với các đối tượng học sinh, giáo viên cần chuẩn bị tốt kiến thức để giải quyết vấn đề mà học sinh đưa ra. 
VD: Khi dạy bài mở rộng vốn từ ''Đồ chơi - trò chơi'' Giáo viên đưa ra một số thành ngữ - tục ngữ sau: ''Chơi với lửa'', ''ở chọn nơi, chơi chọn bạn'', ngữ thích hợp để khuyên bạn.
a. Nếu bạn em chơi với một số bạn hư nên học kém hẳn đi. 
b. Nếu bạn em thích trèo lên một chỗ cao chênh vênh, rất nguy hiểm để tỏ ra mình gan dạ. 
Với tình huống (1) các em có thể chọn thành ngữ tục ngữ ''ở chọn nơi, chơi chọn bạn''. Những với tình huống (2) các em có thể chọn 1 hoặc 2 thành ngữ tục ngữ đều được.
* Tóm lại: Với phương pháp này giáo viên nên hiểu rằng trong cung tình huống sẽ có thể có nhiều cách giải quyết hay nhất để ứng dụng trong học tập, trong cuộc sống. 
3. Phương pháp trục quan 
Phương pháp trực quan là phương pháp dạy học trong đó có giáo viên sử dụng các phương pháp nhằm giúp học sinh có biểu tượng đúng về sự vật và thu nhận được kiến thức, rèn luyện kỹ năng theo nội dung bài học một cách thuận lợi. 
Thu hút sự chú ý và giúp học sinh bài ghi nhớ bài tốt hơn, học sinh có thể khái quát nội dung bài và phát hiện liên hệ của các đơn vị kiến thức.
Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát theo nội dung cần truyền đạt. 
VD: Khi dạy bài ''Đồ chơi - trò chơi'' giáo viên đưa ra 6 bức tranh trong SGK để tìm ra các từ ngữ chỉ tên đồ chơi - trò chơi mà các em được mở rộng trong bài học. 
Bức tranh 1: học sinh tìm từ đồ chơi: diều -Trò chơi : thả diều 
Bức tranh 2: từ chỉ đồ chơi: ''dây'', nồi xoong''''búp bê''; ''trò chơi'''' nếu ăn'', ''cho bé ăn bột'',''nhẩy dây''
* Bức tranh 3: từ chỉ đồ chơi: ''dây'' , ''nồi xoong'', ''búp bê''; ''trò chơi'', ''nấu ăn'', ''cho bé ăn bột'', ''nhảy dây''
*Tóm lại: Sử dụng phương pháp trực quan giảng dạy phân môn luyện từ và câu là rất quan trong vì sẽ khai thác triệt để các kênh hình của bài học nhờ đó mà giáo viên giúp học sinh nứam bài tốt hơn. 
4. Phương pháp rèn luyện theo mẫu
Phương pháp rèn luyện theo mẫu là phương pháp dạy học mà giáo viên đưa ra cá mẫu cụ thể qua dó hướng dẫn học sinh tìm hiểu các điểm của mẫu, cơ chế tạo mẫu và thực hiện theo mẫu. 
Giúp học sinh có điểm tựa để làm bài đặc biệt là với học sinh trung bình và yếu còn đối với học sinh khá giỏi không bắt buộc phải theo mẫu để học sinh phát huy tính tích cực chủ động.
5. Phương pháp phân tích 
Đây là phương pháp dạy học trong đó học sinh dưới sự hướng dẫn tổ chức của giáo viên tiến hành tìm hiểu các dấu hiệu theo định hướng bài học từ đó rút ra bài học.
Giúp học sinh tìm tòi huy động vốn kiến thức cũ của mình để tìm ra kiến thức mới. 
Tạo điều kiện cho học sinh tự phát hiện kiến thức (về nội dung và hình thức thể hiện) 
VD: Khi dạy ''Câu hỏi và dấu chấm hỏi'' 
B1: Cho học sinh tìm các câu hỏi trong bài tập đọc ''Người tìm đường tới các vì sao''. Các em sẽ tìm được 2 câu: 
1. Vì sao quả bóng không có cánh mà vẫn bay được?
2. Cậu làm thế nào mà mua được nhiều sách và dụng cụ thí nghiệm như thế?
Phân tích: 
H: Câu hỏi (1) là của ai? (Xi - ôn - cốp - xki tự hỏi mình) 
H: Câu hỏi (2) là của ai? (Bạn của Xi - ôn - cốp - xki hỏi) 
H: Dấu hiệu nào giúp em nhận ra đó là câu hỏi (cuối câu có dấu chấm) giáo viên: Khi đọc câu hỏi phải nhấn mạnh vào ý cần để hỏi.
Qua phân tích của giáo viên, học sinh rút ra đựơc bài học: 
1. Câu hỏi (còn gọi là câu ghi vấn) dùng để hỏi về những điều chưa biết. 
VD: Bạn đã đọc bài chưa? 
VD: Có phải Trái đất quay xung quanh Mặt Trời Không? 
VD: Chú đất trở thành chú Đất Nung phải không? 
VD: Bạn Hoa trở thành học sinh giỏi à? 
2. Phần lớn câu hỏi là để hỏi người khác những cũng có những câu để tự hỏi mình. 
VD: Chiếc bút này mình đã mua ở đâu nhỉ? 
VD: Vì sao trái Đất lại quay nhỉ? 
VD: Thứ mấy là sinh nhất của mình nhỉ? 
3. Câu hỏi thường có các tư nghi vấn (có phải, không; phải không, à,....) 
Khi viết cuối câu hỏi có dấu chấm hỏi (?) 
VD: Có phải Trái đất quay xung anh mặt trời không? 
VD: Chú đất ở thành chú Đất Nung phải không?
VD: Bạn Hoa trở thành học sinh giỏi à?
* Tóm lại: Trên đây là một số phương pháp dạy học mà nhóm 4 chúng tôi áp dụng trong giảng dạy phânmôn luyện từ và câu. Tuy nhiên chúng tôi cũng nhận thấy rằng không có 1 phương pháp dạy học nào là tối ưu. Mỗi phương pháp thường có mặt mạnh - mặt yếu của nó mặt mạnh của phương pháp này sẽ hỗ trợ cho mặt yếu của phương pháp kia. Cho nên để tránh nhàn chán cần phối kết hợp nhiều phương pháp giảng dạy phù hợp với nhiều đối tượng học sinh. Có như vậy tiết học mới đạt kết quả cao. 
III. Biện pháp thực hiện dạy phân môn kuyện từ và câu lớp 4 
Để có thể thực hiện các yêu càu về kiến thức, kỹ năng của phân môn luyện từ và câu. Chúng tôi có đề xuất một số biện pháp sau: 
1. Nắm vững và phát huy những kiến thức và năng học sinh đã đạt được ở các lớp 1,2,3.
Với mạch kiến thức được sắp xếp theo vòng tròn đòng tâm tuỳ theo ở mỗi lớp mà có những yêu cầu khác nhau. Tuy nhiên nếu các em nắm chắc những kiến thức ở lớp dưới thì lớp 4 các em sẽ nắm kiến thức dễ dàng hơn.
VD: Ở lớp 1: Các em được học về âm - vần - học sinh tìm tiếng có cần từ có vần, nói câu chứa tiếng có vần vừa học thì lớp 4 các em sẽ được học kỹ hơn về cấu tạo của tiếng: tiếng thường gồm có 3 bộ phận ''âm đầu - vần - thanh'' (có tiếng không có âm đầu) 
Hay chỉ là một khái niệm ''Câu hỏi và dấu chấm hỏi'' ở lớp 2 học sinh mới chỉ cần đạt yêu cầu ''Chọn dấu chấm hay dấu hỏi để điền vào ô trống'' ở lớp 3 các em phải đặt và trả lời câu hỏi. Những đến lớp 4 thì không những phải hiểu khái niệm mà còn phải biết giữ lịch sự khi đặt cau hỏi tránh những câu hỏi làm phiền lòng người khác. 
VD: Bạn có thể thể chờ hết giờ sinh hoạt, chúng mình cùng nói chuyện được không? 
Phải biết sử dụng vào câu hỏi với mục đích khác, không chỉ dừng lại ở hỏi những điều muốn biết mà còn phải biết dùng câu hỏi để thể hiện: thái dộ, khen chê, khẳng định, phủ định, yêu cầu mong muốn. 
VD: Câu hỏi thể hiện thái độ khen chê. 
- Em gái em học mẫu giáo chiều qua mang về phiếu bé ngoan. Em khen bé ''sao bé ngoan thế nhỉ?'' 
- Tối qua, bé rất nghịch, bôi mực bẩn hết sách của em. Em tức quá kêu lên. ''sao em hư thế nhỉ? Anh không chơi với em nữa?''
VD: Câu hỏi thể hiện yêu cầu mong muốn: 
Em trai em nhảy nhót trên giường huỳnh huỵch lúc em đang chăm chú học bài. Em bảo :''Em ra ngoài chơi cho chị học bài được không? 
VD: Câu hỏi thể hiện sự nhờ cậy, giúp đỡ. 
- Bà cụ hỏi một người đang đứng vơ vẩn trước bến xe:''Chú có thể dem giúp tôi mấy giờ có xe đi Hà nội không? 
2. Sử dụng linh hoạt nhiều hình thức dạy học trong cùng một tiết dạy/ 
Đó là các hình thức tổ chức: làm việc cá nhân, trao đổi nhóm, đàm thoại gây hứng thú cho học sinh tránh nhàm chán đơn điệu. 
VD: Khi dạy bài:''Mở rộng vốn từ ''ước mơ'' 
BT2: Học sinh thảo luận nhóm đôi 
Tìm thêm những từ cùng nghĩa với ''ước mơ''
- 1 em tìm từ bắt đầu từ tiếng ''ước''
- 1 em tìm từ bắt đầu từ tiếng ''mơ'' 
BT3: Nêu yêu cầu chép thêm những từ: đẹp đẽ, viển vông, cao cả, lớn nho nhỏ, kỳ quặc, dại dột, chính đáng. 
Học sinh thảo luận nhóm 4 
- Đánh giá cao: ước mơ cao đẹp, ước mơ chính đáng, ước mơ cao cả, ước mơ lớn. 
- Đánh giá không cao: ước mơ bình thường, ước mơ nho nhỏ 
- Đánh giá thấp: ước mơ kỳ quặc, ước mơ dại dột, ứơc mơ viển vông. 
BT4: Nêu VD về 1 loại ước mơ nói trên 
Bai này cho học sinh làm việc cá nhân 
* Tóm lại: Vận dụng linh hoạt các hình thức dạy học sẽ làm cho lớp học sôi nổi, gây hứng thứ cho học sinh. 
3. Phát huy tính tích cực của học sinh 
Đổi mới phương pháp dạy học là 

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_chat_luong_giang_day_phan_mon.doc
Giáo án liên quan