SKKN Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu Lớp 1
III- Thực trạng trước khi áp dụng
Trong cộng cuộc đổi mới giáo dục và thực hiện nghiêm túc chủ chương chính sách của đảng và nhà nước nói chung của ngành giáo dục nói riêng về việc nói không với tiêu cực và bệnh thành tích từ các năm học qua đã thể hiện rất rõ. Theo thống kê trên toàn quốc nói chung và của các trường tiểu học nói riêng đã có biết bao học sinh ở lại lớp và học sinh yếu kém ngồi nhầm chỗ. Điều đó khiến tôi rất trăn trở làm thế nào để nâng cao chất lượng học sinh yếu kém giúp học sinh nắm được kiến thức cơ bản ngay từ đầu lớp 1 bởi lớp 1 là nền móng cho sự phát triển của học sinh sau này với lớp 1 điều quan trọng nhất là đọc, viết được có đọc được tốt học sinh mới hiểu được nội dung văn bản và lên lớp trên học sinh mới học tốt được các môn học khác . Vì vậy tôi đã nghiên cứu “ Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu”.
CS Đức Hạnh với nội dung sau : +Tìm hiểu số học sinh đi học mẫu giáo và số học sinh không đi học mẫu giáo hoặc đi học không đều, tìm hiểu lý do học sinh không đi học mẫu giáo . +Kiểm tra sự sự nắm bắt , nhận diện chữ cái đã học trong trường mầm non kết quả thu được như sau : Lớp 1/ Sĩ số HS không học mẫu giáo HS đi học không đều Học sinh đi học đều 14 2 6 6 Kết quả khảo sát nhận diện chữ cái Sĩ số Không biết chữ cái nào Biết 5- 6 chữ Nhận biết hết 14 5 5 4 Như vậy tỉ lệ học sinh nhận diện 1 cách chắc chắn chính xác bảng chữ cái quá thấp dẫn đến kết qủa học còn chưa cao . Một trong những lí do dễ thấy là vì các em chưa được sự quan tâm của gia đình . Các em chưa chăm chỉ học . Vì vậy là giáo viên chúng ta phải biết được đặc điêm tình hình của từng đối tượng phát huy những mặt tích cực của học sinh . Tổ chức tiết dạy sao cho các em luôn luôn cảm thấy nhẹ nhàng và thích thú . Giáo viên phải gần gũi yêu thương đọng viên kịp thời để học sinh thích học .Nhận thức rõ điều này thấy rõ được những khó khăn cơ bản tôi đã thực hiện 1 số biện pháp rèn cho học sinh lớp 1 để cho học sinh học tốt. IV. Mô tả bản chất của sáng kiến 1.Tính mới , tính sáng tạo, tính khoa học A/ Biện pháp tác động giáo dục - Từ những thực trạng trên tôi đã tiến hành họp phụ huynh học sinh đề nghị và yêu cầu thống nhất trang bị đủ sách vở đồ dung cần thiết phục vụ cho môn học - Yêu cầu, đề nghị phụ huynh nhắc nhở uốn nắn kịp thời việc học và làm bài ở nhà của học sinh. -Tham mưu với nhà trường để giáo viên có đủ đồ dung tranh ảnh và tài liệu tham khảo phục vụ bài dạy. Đồng thời mượn đồ dung học tập sách cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn. -Xây dựng đôi bạn học giỏi - yếu kèm cặp nhau - Đưa ra các tiêu chuẩn thi đua cho từng nhóm. Đầu giờ truy bài các nhóm kiểm tra chéo nhau.Cuối 1 tuần tổng kết thi đua vào giờ sinh hoạt. Hết tháng tổng kết tháng và có trao thưởng bằng phấn màu , bút chì, vở ... B/ Phần học các nét chữ cơ bản: Ngay sau những buổi đầu rèn nề nếp, tôi cho học sinh học các nét chữ cơ bản. Tôi đã dạy thật kỹ, thật tỉ mỉ tên gọi và cách viết các nét chữ đó. Để cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ nhứng nét chữ cơ bản tôi phân theo cấu tạo các nét có tên gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và so sánh. Dựa vào các nét chữ cơ bản này mà học sinh phân biệt được các chữ cái, kể cả các chữ cái có hình dáng cấu tạo giống nhau. Ví dụ: Nhóm 1: Nét sổ thẳng , nét gạch ngang , nét xiên phải, nét xiên trái . Nhóm 2: Nét móc trên, nét móc dưới, nét móc hai đầu, nét cong phải Nhóm 3: Nét cong trái, nét tròn , nét khuyết trên Nhóm 4: Nét khuyết dưới, nét thắt C .Phần học âm: Sau khi học sinh đã học thật thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ bản một cách vững vàng thì tiếp theo là phần học âm ( chữ cái ). Giai đoạn học chữ cái là giai đoạn vô cùng quan trọng. Trẻ có nắm chắc từng chữ cái thì mới ghép được các chữ vào với nhau để thành tiếng, các tiếng đơn ghép lại với nhau tạo thành từ và thành câu. Giai đoạn này tôi dạy cho trẻ phân tích từng nét chữ cơ bản trong từng chữ cái và nếu chữ cái đó có cùng một tên gọi song có nhiều kiểu viết khác nhau hay gặp trong sách báo như: chữ a, chữ g thì tôi phân tích cho học sinh hiểu và nhận biết đó là: chữ a, chữ g để khi gặp kiểu chữ đó trong sách báo trẻ dễ hiểu và không bị lúng túng. Ví dụ Âm: a - a , g - g. + Âm a gồm hai nét: nét tròn nằm bên trái và nét sổ thẳng nằm bên phải; a cũng gồm nét tròn và nét móc trên. + Âm g gồm : nét tròn và nét móc dưới; g gồm nối với nét cong phải. Từ việc học kỹ cấu tạo âm tạo bởi các nét chữ cơ bản thật kỹ và tỉ mỉ sẽ giúp trẻ phân biệt được sự khác nhau cả về cấu tạo và tên gọi của bốn âm sau: d; b; p; q. Ví dụ: + Âm d gồm hai nét: nét tròn nằm ở bên trái và nét sổ thảng nằm bên phải. đọc là: “ dờ “. + Âm b gồm hai nét: nét tròn nằm ở bên phải và nét sổ thẳng nằm ở bên trái. đọc là: “ bờ “. Sang phần âm ghép nghĩa là âm gồm hai âm đơn ghép lại với nhau. Tôi cho học sinh sắp xếp các âm có âm h đứng sau thành một nhóm để nói lên được sự giống nhau và khác nhau của các âm đó. Ví dụ: + Các âm ghép: ch – c , nh – n , th – t , kh – k , gh – g , ph – p , ngh – ng . + Còn lại các âm: gi, tr, q, ng, tôi cho học thật kỹ cấu tạo và cách ghép chữ. + Phân từng cặp: ch - tr, ng - ngh, c - k, g - gh để phát âm chính xác và viết chính tả phân biệt.... Trong từng ngày, từng bài ôn tôi đã nghĩ ra được một số bài để kiểm tra sự nhận thức của trẻ thông qua các giờ chơi, các giờ nghỉ. Từ đó, củng cố thêm kiến thức về từ ngữ, câu văn cho trẻ tránh sự đơn điệu của các bài ôn tập trong sách. Vì những bài ôn này ở trong sách được lặp đi lặp lại bài nào cúng như bài nào làm cho học sinh tiếp thu một cách nhàm chán nên tôi đã thay vào phần chơi trong tiết hai của bài ôn là những bài mà tôi tự nghĩ và viết ra phiếu. Có thể phiếu chỉ là một từ gồm 2 hoặc 3 tiếng cũng có thể là một câu văn. Song những từ và câu văn này phải có nghĩa và mang tính giáo dục. Ví dụ : Góc sân nhà Học có cây ổi đào đâm chồi nảy lộc, lộc non mơn mởn. Cứ mỗi ngày Học đều ra vun gốc để ổi mau ra quả. Cô Phúc khen Học chăm làm. Cả trong những khi kiểm tra bài có thể là bảng con cũng có khi là phiếu cho học sinh lên bốc thăm rồi đọc lên. Bảng và phiếu là những từ chỉ có âm, vần mới học xong, từ đó không lấy trong sách ra. Nếu học sinh đã thuộc mặt chữ rồi thì bất kỳ một từ mới nào trẻ cũng đọc được. Đến khi học sinh viết chính tả vào bảng con, tôi cũng không đọc cho học sinh viết những tiếng và từ đã có sẵn trong bài. Thông qua phần xây dựng tiếng, từ mới trẻ được hiểu biết thêm nhiều từ và ý nghiã của các từ mà trẻ tìm đựơc của hôm trước nay viết vào bảng. Do đó phong trào tìm tiếng, từ mới học sinh rất hào hứng và phấn khởi tham gia sôi nổi nhiệt tình. Những đọan văn hay bài văn mang tính chất: -Cung cấp kiến thức về âm, vần, tiếng. Ví dụ : o a c d đ / \ ? ~ . giỏ đỏ có cà. cò đã có cá. -Cung cấp vốn từ, câu phong phú. Ví dụ: u ư y n m l b dì nụ là y tá ở tổ y tế. bà tư bế bé lệ đi từ từ. bố tú đi mô tô đỏ. mẹ na mổ cá mè. ng ngh nh th. má ngà là ca sĩ ba tứ đi xe mô tô về nhà cô thu bé nhã khệ nệ bê ghế gỗ gụ ra ngõ để bà nghỉ. - Hợp thành đọan hay bài văn có nội dung mang tính giáo dục đạo đức, tư tưởng cho học sinh theo chủ điểm các đợt thi đua như kỷ niệm các ngày lễ: 8/3, 26/3, 15/5, 19/5, 22/12... để xây dựng bài cho học sinh đọc. D, Phần học vần: Sang đến phần học vần, học sinh đã được học chữ hoa nên trong các đoạn văn hay bài văn tôi đã luyện cho học sinh biết nhận biết và đọc chữ hoa sau dấu chấm, các danh từ riêng tên gọi. - Bài: Ôn các vần có âm m cuối. am ăm âm om ôm ơm em êm im um. .Bà Tám đã già quá nên đi lom khom. Khi bà bị ốm mẹ cho Thêm đến thăm bà và đem cam đến. Bà nhận quà và cảm ơn bố mẹ Thêm. Bà còn khen em lớn quá. .Cô Thơm dẫn Trâm đi xem thú ở Thủ Lệ. Trâm nhìn rõ con nhím nằm thu lu bên lùm cây tim tím. .Hôm nay trời rất rét, mẹ nhắc Ngát đi học phải mặc thêm áo ấm. Giờ giải lao, Ngát mải vui nhảy và hò hét nên ra lắm mồ hôi. Thấy vậy, cô giáo nhắc Ngát và các bạn cởi bớt áo dày ra hít thở cho đỡ mệt mồ hôi đã ráo, cô nhắc các em mặc áo ấm. Vì thường xuyên phân loại chất lượng học tập của học sinh nên tôi đã chia chất lượng của lớp ra làm 4 trình độ: Giỏi, Khá, Trung bình, Yếu. Và phân công: - Giỏi kèm yếu. -Khá kiểm tra trung bình. Hàng ngày tôi giao phiếu bài cho học sinh giỏi. Những ngày đầu, tôi trực tiếp kiểm tra học sinh giỏi, biết được các em học giỏi đã đọc trơn tru, lưu loát rồi thì khi nhận được phiếu là trẻ kiểm tra bạn một cách chính xác. Từ những điều học sinh giỏi tiếp thu được các em sẽ in sâu và truyền thụ lại cho bạn. Lúc đó, học sinh trung và yếu dễ tiếp thu hơn. Bởi vì ông cha ta đã dạy: " Học thầy không tày học bạn ". Đúng thế trẻ dạy trẻ ngôn ngữ của trẻ dễ hòa đồng với nhau. Tuy nhỏ song trẻ cũng có lòng tự trọng thấy bạn hơn và lại dạy mình thì cũng phải cũng cố gắng học để đỡ thua kém bạn. Từ đó, chất lượng học sinh trong tương đối đồng đều. Song không ỷ lại cho học sinh giỏi mà tôi vẫn thường xuyên kiểm tra và kèm cặp học sinh trung bình và yếu nhằm củng cố cho các em về kiến thức một cách vững vàng hơn. 2. Kết quả: Hết phần học âm ( chữ ) hầu hết học sinh yếu lớp tôi dạy đều nắm vững chữ, âm và đọc được tiếng, từ khá tốt. Đến phần vần: Học sinh nắm được các vần. -Xây dựng được tiếng, từ mới và dần dần đọc được các đoạn văn hay bài văn dài. -Cuối năm học số học sinh yếu bước đầu đã đọc trơn được. Xong cũng có một số em còn phải đánh vần. Cụ thể kết quả qua kiểm tra đọc như sau: Tổng số HS HS giỏi HS khá HS trung bình HS yếu 14 0 3 11 3. Khả năng và điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: + Khả năng áp dụng: Sáng kiến có thể áp dụng được ở tất cả các lớp học có học sinh đọc yếu. + Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Đối với các em học sinh ở những nơi có điều kiện khó khăn việc học đọc, học viết cới các em là rất khó khăn. Do giáo viên và các em bất đồng ngôn ngữ và còn có nhiều em học sinh chưa học qua mầm non. Nên để rèn cho học sinh biết đọc người giáo viên phải luôn có trách nhiệm cao nhiệt tình giúp đỡ uốn nắn các em. Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực nhất để phát huy hết khả năng của các em. Đồng thời phối hợp tốt với phụ huynh học sinh giúp các em biết cách tự học khi ở nhà. Với sự cố gắng nỗ lực của giáo viên và sử dụng những biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu như trên tôi tin chắc rằng các em sẽ đọc yếu sẽ tiến bộ từng ngày không những các em biết đọc mà các em còn có thể đọc tốt, đọc lưu loát. 4. Thời gian áp dụng: năm học 2014- 2015 V- Kết luận: Tóm lại, ở tất cả các trư
File đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_ren_doc_cho_hoc_sinh_yeu_lop_1.doc