Sáng kiến kinh nghiệm nâng cao chất lượng

Trong cuộc sống hàng ngày, ngôn ngữ của mỗi con người thực sự phong phú đa dạng. Nói sao để người nghe hiểu được là cả một vấn đề cần thiết. Do đó, nhu cầu ngôn ngữ là không thể thiếu, mà để ngôn ngữ tồn tại được trước hết phải nói đến đến đơn vị cơ bản nhất, đó là đơn vị "Từ". Vì vậy, để dáp ứng nhu cầu này, chương trình luyện từ và câu Tiếng Việt ở Tiểu học đã lấy việc dạy "Từ" làm đơn vị cơ bản, đơn vị trung tâm để nâng cao chất lượng, làm giàu vốn từ, đáp ứng nhu cầu giao tiếp trên mọi bình diện khác nhau của con người

Việc lấy từ làm đơn vị cơ bản được dạy từ lớp 2 đến lớp 5, từ nhận thức sơ giản đến nhận thức phức tạp theo hướng đồng tâm. "Từ" là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa và dùng để đặt câu. Nên việc lấy từ làm đơn vị cơ bản để tạo câu vừa tạo điều kiện thuận lợi gắn việc giảng dạy với hoạt động giao tiếp của con người, vừa hướng việc dạy- học tới mục tiêu rèn luyện kỹ năng ngôn ngữ cho học sinh . Thông qua việc dạy từ mà giúp học sinh về các kỹ năng nhận diện, phân loại từ, phân biệt danh giới từ, đặc biệt là kỹ năng dùng từ đặt câu và rèn luyện các thao tác tư duy.

 

doc15 trang | Chia sẻ: nguyenngoc | Lượt xem: 1320 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm nâng cao chất lượng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ọc sinh: có). Giáo viên kết luận: vậy trời có nghĩa vì có thể nói trời chang chang. Tương tự giáo viên đặt cấn đề với từ nắng để có kết luận: nắng cũng có nghĩa vì có thể nói nắng chang chang. Như vậy, trời nắng gồm 2 từ trời và nắng. Do đó trường hợp (1) là cách tách đúng nhất theo yêu cầu của đầu bài. Từ đây, học sinh dễ dàng định nghĩa được “Từ ” là gì.
	- Khi dạy về “Từ” cho học sinh trong lớp, giáo viên cần lưu ý cho học sinh cả về nội dung ý nghĩa lẫn dấu hiệu hình thức để khỏi xảy ra những điều không đáng có.
	- Giáo viên phải khơi dậy tính tò mò cũng như các năng lực sẵn có của học sinh qua các hoạt động học cụ thể, như tìm ra ý câu văn hay, sử dụng từ trong ngôn ngữ đúng...
	- Người giáo viên phải là người tổ chức và hướng dẫn từng học sinh, sao cho mọi học sinh đều học tập và được phát triển cao nhất. Ngoài việc cung cấp kiến thức kỹ năng, còn phải dạy cho học sinh biết cách học tập có năng lực linh hoạt sáng tạo.
	- Để giải các các bài tập: Phân định ranh giới từ, giáo viên phải hướng dẫn học sinh vận dụng các thao tác kiểm nghiệm nhận điện tính hoàn chỉnh về cấu tạo và về nghĩa của từ. Ngoài ra, cần sử dụng các tác thao tác chêm xen so sánh, đối chiếu tỉnh lược để chỉ ra làm một từ hay là hai từ.
	Ví dụ: Dùng gạch dọc để phân định từ của từng câu trong đoạn văn sau:
	“Hoa ngô xơ xác như cỏ may. Lá ngô quắt lại, rủ xuống. Những bắp ngô đã mập và chắc chỉ chờ tay người đến bẻ mang về’.
	Học sinh sẽ lưỡng lự, lúng túng khi tìm lời giải cho các tổ hợp từ. Hoa ngô, cỏ may, lá ngô, quắt lại, rả xuống, là một từ hay là hai từ. Lúc này người giáo viên cần hướng dẫn để giúp các em tháo gỡ vướng mắc này.
	+ “cỏ may, quắt lại, rủ xuống” là một từ vì: may, lại, xuống đều mờ nghĩa khiến cho cỏ may, quắt lại, rủ xuống kết hợp rất chặt. Tương tự như từ “tay người” cũng là một từ.
	+ “Hoa ngô, lá ngô, bắp ngô” thoạt nhìn có vẻgiống nhau, nhưng thực chất ở đây bắp và ngô trong bắp ngô kết hợp chặt hơn (vì ngô vốn là cây trồng để lấy quả) còn hoa và ngô, lá và ngô kết hợp lỏng, chỉ một bộ phận của cây ngô. Do đó nên xem bắp ngô là một từ, còn hoa ngô, lá ngô là 2 từ. Tương tự từ mang về cũng là hai từ vì về chỉ hướng của mang tạo thế đối lập với mang đi và nó kết hợp không chặt chẽ. Tuy nhiên với những trường hợp như thế này nếu học sinh xếp cả ba trường hợp này là một từ hay hai từ thì cũng có thể chấp nhận được. Giáo viên cần biết rằng đối với một sự kiện ngôn ngữ, người ta có thể xem xét trên nhiều góc độ khác nhau. Do đó thầy giáo không nên quá cứng nhắc khi đứng trước một tổ hợp không xác định được rạch ròi là một từ hay là hai từ. Đặc biệt không nên lấy quyền làm thầy để đưa ra kết luận cuối cùng khi mà bản thân sự kiện khoa học chưa có tính thuyết phục. Cần hiểu rằng sự giải thích khác nhau không làm thay đổi sự kiện ngôn ngữ, ví như một tổ hợp cụ thể là một từ hay hai từ cũng không phải là điều quan trọng mà quan trọng là học sinh sẽ sử dụng nó như thế nào trong nói năng.
	Ví dụ: Chép lại đoạn thơ sau rồi gạch một gạch dưới các từ đơn, gạch hai gạch dưới các từ ghép.
	Em mơ làm mây trắng
	Bay khắp nẻo trời cao
	Nhìn non sông gấm vóc
	Quê mình đẹp biết bao
	Bài này tuy tách dễ song các em thường lưỡng lự trước các trường hợp: mây trắng, khắp nẻo, trời cao.
	Lúc này giáo viên cần chỉ ra sự kết hợp lỏng cả về cấu tạo và về nghĩa của hai tổ hợp: mây trắng không chỉ một loại mây, trời cao không phải chỉ một thứ trời, có thể nói trời rất cao, trời cao thăm thẳm... nên nó phải tách thành bốn từ đơn. Còn khắp nẻo là một từ ghép hay hai từ đơn cũng được miễn sao học sinh nắm được cấu tạo từ, liên kết từ.
	Vậy ví dụ trên được tách ra là:
	Em mơ làm mây trắng
Bay khắp nẻo trời cao
	Nhìn non sông gấm vóc
	Quê mình đẹp biết bao
Bên cạnh đó, để giúp học sinh sử dụng thành thạo thao tác xác định đơn vị từ, chúng ta có thể đưa ra dạng bài tậpđối chiếu những tổ hợp từ giống nhau, như 1 bên là 2 từ đơn, 1 bên là 1 từ ghép.
	Ví dụ: Bánh dẻo lắm bà ạ. (1)
	Cháu chỉ thích ăn bánh dẻo, không thích ăn bánh nướng . (2)
	Bánh dẻo (1) là 2 từ vì ở đây nói về một thứ bánh nào đó có tính chất dẻo, có thể nói: bánh rất dẻo (yếu tố chẽm xen) và giữa bánh và dẻo kết hợp lỏng về cấu tạo. Còn bánh dẻo (2) là một từ vì đây là tên một loại bánh không thể chẽm xen và vì dẻo mờ nghĩa nên nó gắn kết rất chặt chẽ.
	- Khi dạy học Ngữ pháp, để học sinh tránh được những sai phạm khi phân loại, nhận diện cấu tạo từ thì khi dạy giáo viên tránh đưa ra những trường hợp ghép ngẫu nhiên như: tắc kè, bồ hóng... ra phân tích. Các tiếng trong từ vừa có quan hệ về nghĩa, vừa có quan hệ về âm như: tươi tốt, thúng mủng, đi đứng... thì được xếp vào từ ghép theo nguyên tắc ưu tiên về nghĩa. Nhất loạt xếp các từ có các tiếng quan hệ về âm như: nhí nhảnh, chôm chôm, thằn lằn... vào lớp từ láy, không tính đến việc có xác định được hình vị gốc hay không. Và không bỏ sót các trường hợp láy vắng khuyết phụ âm đầu và láy phụ âm đầu nhưng được biết bằng các con chữ khác nhau: ỏn ẻn, ồn ào, kính coong, cong queo...
	- Ngoài ra khi dạy học Ngữ pháp cần dựa vào sự giống nhau về đặc điểm Ngữ Pháp khái quát và đặc điểm hoạt động Ngữ pháp của từ để phân ra thành từng loại đó là từ loại rồi chia nhỏ ra thành các tiểu loại. Giáo viên cần lưu ý nên dạy từ loại gắn với đặc điểm hoạt động Ngữ pháp (tạo cụm từ và tạo câu) để có nhiều lợi ích cho học sinh khi sử dụng các từ theo từ loại trong nói, viết và giúp học sinh dễ dàng nhận diện từ loại của từ. Học sinh thường hay gặp khó khăn khi xác định từ loại. Giáo viên cần cho học sinh nắm chắc nội dung, ý nghĩa, dấu hiệu hình thức, khả năng kết hợp của từng từ loại, tiểu loại để tránh nhầm lẫn khi xác định.
	Ví dụ: Xác định từ loại của những từ sau:
	Niềm vui, vui chơi, vui tươi, tình yêu, yêu thương, đáng yêu.
	Để xác định được đúng từ loại của các từ trên, cần xét về ý nghĩa (chỉ đối tượng, hành động hay tính chất) cũng như thử các khả năng kết hợp chúng. Có thể nói: những niềm vui, hãy vui chơi, rất vui tươi, tình yêu ấy, hãy yêu thương, rất đáng yêu. Để đưa ra một bài làm đúng: niềm vui, tình yêu là danh từ, vui tươi, đáng yêu là tính từ.
	- Phải cho học sinh nắm chắc qui tắc cấu tạo từ loại để xác định đúng được từ loại khi mà các từ có cùng yếu tố cấu tạo từ nhưng khác từ loại, cần ghi nhớ: sự, cuộc, nỗi, niềm... mà đi kèm với động từ hoặc tính từ thì tạo thành một danh từ mới (niềm vui, nỗi buồn...).
	- Khi xác định từ loại trong đoạn văn, đoạn thơ lưu ý học sinh có phân cách đúng ranh giới từ trong câu, đoạn thì mới xác định đúng từ loại. Nhiều khi do không phân định đúng ranh giới từ nên đã xác định sai từ loại .
	Ví dụ: Tìm các động từ nội động và các động từ ngoại động trong đoạn thơ sau:
	Tinh mơ em trở dậy
	Rửa mặt rồi đến trường
	Em bước vội trên đường
	Núi dăng hàng trước mặt.
Học sinh khó xác định từng tổ hợp: rửa mặt, đến trường, dăng hàng là 1 từ hay 2 từ. Khi xác định được đúng “rửa mặt ”, là 2 từ, “đến trường” là 2 từ, “dăng hàng” là 1 từ thì học sinh sẽ dựa tiếp vào ý nghĩa và khả năng kết hợp của động từ để xác định mỗi động từ: trở dậy, rửa, đến, bước, dăng hàng là động từ nội động hay động từ ngoại động.
	- Người giáo viên Tiểu học cần biết rằng thế giới ngôn từ không có tận cùng, việc học Ngữ pháp để ứng xử giao tiếp xã hội là suốt đời. Nếu nghĩ rắng học hết chương trình Tiểu học có thể giải thích được cả thế giới ngôn ngữ thì thật là ảo mộng vừa dạy xong cho ôn về khái niệm “Từ” nếu yêu cầu học sinh phải chỉ ra được ranh giới từng từ trong một văn bản bất kỳ thì thật là phi lý. Vì vậy người giáo viên phải có thái độ mềm dẻo, không tuyệt đối hoá, phiến diện, cứng nhắc, lời nói phải nhẹ nhàng, truyền cảm đi vào lòng người.
	- Cần lưu ý học sinh để giao tiếp tốt phải có ngôn ngữ chính xác, từ dùng để đặt câu phải sát hợp. Lỗi dùng từ sai nghĩa, tối nghĩa rất thường hay gặp ở học sinh trong lớp. Nếu học sinh đặt câu chưa hay, chưa chính xác thì giáo viên chớ nên nóng vội cho sai rồi bỏ qua mà phải hướng dẫn chỉ ra cho học sinh thấy rõ là phải nên dùng thế này, không nên dùng thế kia sẽ không hợp vì ngôn ngữ của học sinh rất đa dạng.
	Ví dụ: Học sinh đặt câu:
	“Cô gái đó vừa xinh, vừa học kém”.
	Giáo viên phải chỉ rõ cho học sinh thấy: xinh và học kém không phải đều là những nét phẩm chất tốt hoặc đều là những nết xấu nên không tạo thành cặp song song.
	Câu đúng sẽ là: Cô gái đó vừa xinh, vừa học giỏi.
	Hoặc: Cô gái đó vừa xấu, vừa học kém.
	Ngoài ra cần giúp học sinh tránh tình trạng dùng tính từ như một động từ trong hoàn cảnh giao tiếp như:
	Em “thân thương” bạn Linh.
	- Người giáo viên trong khi dạy hcọ sinh làm bài tập thực hành về từ loại, cần phải chỉ rõ để học sinh khỏi nhầm lẫn giữa từ loại của từ với cấu tạo từ: Bài tập yêu cầu xác định (chỉ rõ) từ loại của từ, tức là yêu cầu xác định từng từ là danh từ, động từ, tính từ hay đại từ, chứ không phải phân loại từ theo cấu tạo.
	- Khi dạy thực hành “Từ”, giáo viên cần lưu ý tới dạng bài tập sáng tạo. Bởi ở đây nó không bị quy định bởi một mẫu câu hay một cấu trúc câu cho sẵn mà sẽ giúp cho tư duy học sinh làm việc lôgíc, ngôn ngữ được sản sinh theo qui trình tự nhiên phát triển rộng và cao hơn.
	Ví dụ: Tìm một từ chỉ phẩm chất của người học sinh giỏi rồi đặt câu.
Hoặc: Hãy đặt câu với thành ngữ: Chân lấm tay bùn.
	- Cùng với bài tập sáng tạo, cần xây dựng loại bài tập tình huống để học sinh đặt mình vào hoàn cảnh nói năng và sản sinh ra những câu, đoạn, bài đã được dự tính trước. Thi đua nhau dùng từ đặt câu đúng, hay, có nội dung phong phú.
	- Người giáo viên cần sử dụng linh hoạt nhiều hình thức và phương pháp dạy học để thu hút mọi học sinh vào hoạt động học tập. Trong giờ dạy đặc biệt là môn Tiếng Việt vì học sinh không mấy hứng thú khi học môn học này nên giáo viên giảng bài tránh nói nhiều, kéo dài và đơn điệu, buộc học sinh chỉ ngồi nghe giảng, dẫn đến chán học. Đặc biệt từ, câu dùng trong hình thức kiểm tra vấn đáp cần ngắn gọn, khéo léo để mọi học sinh đều phải chú ý tham gia học tập, tránh rơi vào tình trạng.
	“Thầy hỏi trò nào - trò ấy nghĩ và đáp
Còn các trò khác khoanh tay ngồi nghe”.
Tiết 

File đính kèm:

  • docskkn nang cao chat luong.doc
Giáo án liên quan