Đề tài Sử dụng thiết bị dạy học môn vật lý trong các giờ lên lớp

Như chúng ta đã biết vật lý là bộ môn khoa học thực nghiệm với phương pháp nghiên cứu là đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng.Mọi kết luận của nó đều rút ra được nhờ thực tiễn và kiểm chứng bằng quan sát và thí nghiệm. Chính vì vậy trong các giờ dạy vật lý cần phải có thiết bị dạy học để khơi dạy và phát triển năng lực tư duy khả năng tự học, hình thành cho các em biết rõ phương pháp học và nghiên cứu bộ môn.

Đối với tình hình thực tế của việc đổi mới phương pháp dạy học và thay sách giáo khoa cho các lớp 6,7,8,9 với bộ môn vật lý: Thiết bị dạy học có đủ cho giáo viên và học sinh làm việc:Song vấn đề đặt ra là sử dụng các thiết bị đó như thế nào? và làm thế nào để các em có thể tự tay thực hành thành công các thí nghiệm đó dưới sự chỉ đạo của giáo viên từ đó tìm ra kiến thức của bài học các em áp dụng kiến thức đó vào cuộc sống nhằm đạt kết quả cao đó là vấn đề mà mỗi giáo viên dạy vật lý đều phải quan tâm.

Mở rộng ra qua tìm hiểu về các kỳ thi Vật lý Olympic Quốc tế chúng ta bắt được một thực trạng ở thí sinh Việt Nam là: Điểm lý thuyết thường cao nhưng điểm thực hành còn thấp so với các nước bạn.và thực tế học sinh THCS các em còn đang ở độ tuổi thiếu niên nên còn nô nghịch nhiều, các em thường tò mò ham chơi chưa xác định được mục tiêu học tập cũng như chưa thật sự tự giác làm các thí nghiệm vật lý để khám phá và chiếm lĩnh kiến thức. gây nhiều khó khăn cho giáo viên.

Nhưng bên cạnh đó cũng có rất nhiều em học sinh rất hứng thú khám phá kiến thức bài học thông qua các giờ dạy có đầy đủ các trang thiết bị dạy học và dưới sự chỉ đạo dẫn dắt có tính khoa học lô gích và khả năng tổ chức tốt các hoạt động dạy học ở giáo viên.

Do đó đòi hỏi ở giáo viên daỵ môn vật lý phải có khả năng sử dụng tốt các thiết bị dạy học để tạo điều kiện cho việc tiếp thu bài kiến thức của học sinh được tốt.

Chính vì vậy để giải quyết được các vấn đề nêu trên tổ tôi đã cùng tôi tập trung đi sâu vào các vấn đề đó để tìm ra cách giải quyết hợp lý giúp cho giờ dạy vật lý đạt hiệu quả cao hơn cho giáo viên và học sinh đó là:"Sử dụng thiết bị dạy học trong các giờ lên lớp"

 

doc16 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1693 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Sử dụng thiết bị dạy học môn vật lý trong các giờ lên lớp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n các em là khi đốt cần phải hơ lửa xung quanh để tránh vỡ, hoặc nhẹ tay với các đồ dùng bằng sứ, thủy tinh hoặc cần thực hiện các biện pháp an toàn khi học phần điện học và điện từ học ở lớp 9
+Với phần cách tiến hành thí nghiệm: Yêu cầu giáo viên phải nêu rõ từng bước của thí nghiệm để học sinh tiện quan sát.
Đôi khi với một số thí nghiệm đơn giản thì có thể cho học sinh đọc cách tiến hành thí nghiệm trong sách giáo khoa sau đó thảo luận nêu nêncách tiến hành thí nghiệm. Cuối cùng giáo viên nhấn mạnh cách tiến hành thí nghiệm
4. Cách bố trí thí nghiệm:
-Nếu các thiết bị trong phòng đồ dùng mà phù hợp với thiết bị theo sách giáo khoa thì giáo viên có thể tiến hành theo phương án của sách giáo khoa.
-Nếu các thiết bị trong phòng đồ dùng mà không có hoặc còn thiếu so với các đồ dùng bố trí ở sách giáo khoa thì giáo viên tìm cách thay thế các đồ dùng khác.
Như: Chúng ta có thể lợi dụng các thiết bị của môn công nghệ(ở phần điện) để phục vụ môn Vật lý.
Ví dụ: Máy biến thế xoay chiều, các loại bóng đèn...
có như thế mới thực hiện tốt mục tiêu bài học
5. Bắt đầu tiến hành thí nghiệm
-Trước khi bắt tay vào làm thí nghiệm giáo viên phát cho các nhóm phiếu học tập để các em ghi lại các hiện tượng, số liệu, kết quả mà các em quan sát được qua thí nghiệm đó nhằm giúp cho quá trình thảo luận nhóm và từ đó sử lý kết quả thí nghiệm được tốt hơn
-Giáo viên: Cần thực hiện các thao tác khi tiến hành thí nghiệm phải thật rõ ràng, không lúng túng để hoc sinh tiện theo dõi.
-Và để đạt được hiệu quả cao trong khi tiến hành thí nghiệm thì giáo viên cần chú ý một số điều sau:
-Giáo viên có thể đặt các câu hỏi khắc sâu về các tình huống trong thí nghiệm nhằm tạo cho học sinh những tình huống có vấn đề để các em cùng suy nghĩ tháo gỡ từ đó các em hiểu sâu hơn về thí nghiệm đang làm.
Ví dụ: ở bài"Tính chất ảnh tạo bởi gương phẳng" giáo viên sau khi làm xong thí nghiệm thì có thể đặt câu hỏi như sau: Tại sao phải chọn hai quả pin hoặc hai viên phấn giống nhau? Liệu có thể chọn hai viên phấn hoặc hai quả pin khác nhau được không?
Hoặc ở bài"ảnh của một vật tạo bởi thấu kính hội tụ" với phần cách vẽ ảnh giáo viên có thể cho học sinh đề ra phương án thí nghiệm kiểm tra cách vẽ các tia sáng đó.
-Tùy theo từng bài mà giáo viên có thể nêu thêm thí nghiệm thay thế hoặc cho học sinh tự nghĩ ra thí nghiệm thay thế khác để cho bài học phong phú đa dạng nhằm phát triển được vốn hiểu biết của học sinh.Nhưng các thí nghiệm thay thế đó đòi hỏi phải đảm bảo đúng và chính xác mục tiêu của thí nghiệm.
Ví dụ ở bài"Lực đẩy Acsimet" trong chương trình Vật lý lớp 8 ta có thể thay thế thí nghiệm trong sách giáo khoa bằng thí nghiệm sau:(thí nghiệm được mô tả trên hình vẽ)
 Hình a
 Hình b
 Hình c
-Hoặc với bài"Sự khúc xạ ánh sáng" ở lớp 9
Có thể làm thí nghiệm dùng tia sáng chiếu từ nước sang không khí để thay thế, kiểm tra cho thí nghiệm cắm các đinh ghim ở sách giáo khoa...
Càng tạo ra được các thí nghiệm thay thế tốt càng làm cho giờ học sôi động và phát triển được óc tưởng tượng và tư duy ở học sinh
-Với các thí nghiệm thay thế giáo viên có thể hỏi học sinh tại sao thí nghiệm này có thể thay thế được? Nhằm khắc sâu hơn cho các em về tính chặt chẽ, đúng đắn của thí nghiệm thay thế đó
+Khi trình bày các dụng cụ thí nghiệm giáo viên cần lưu ý: Các dụng cụ phải có kích thước đủ lớn để cả lớp có thể nhìn rõ, có hình dáng đẹp đẽ để nôi cuốn sự chú ý của học sinh
-Nếu cần thì trên các dụng cụ phải có các vật chỉ thị để làm nổi bật nên các bộ phận đặc biệt cần quan sát hoặc dùng các vật, chất khác hỗ trợ cho vấn đề cần nghiên cứu
Ví dụ: Để học sinh phân biệt được hai cực của một thanh nam châm thì giáo viên có thể sơn xanh thẫm nửa thanh nam châm về cực bắc sơn đỏ nửa còn lại.
-Hoặc ở thí nghiệm quan sát các tia sáng chuyền qua thấu kính hội tụ và thấu kính phân kỳ để quan sát rõ hơn các tia sáng thì giáo viên có thể cho thêm ít khói hương vào sẽ có kết quả tốt hơn...
+Chỉ bày ra trước mắt học sinh những dụng cụ cần thiết để minh họa hoặc làm thí nghiệm không được bày la liệt trước mắt học sinh những dụng cụ đã dùng xong hoặc chưa dùng tới nhằm tránh trường hợp học sinh không tập chung vào thí nghiệm của giáo viên.
+Các thiết bị dùng để tiến hành trong bài yêu cầu cần phải được kiểm tra và làm trước từ 4 ngày trở nên để đảm bảo giờ thực hành thành công và gây được niềm tin vào khoa học ở học sinh
+ Khi các thí nghiệm xảy ra nhanh giáo viên cần lặp lại thí nghiệm để học sinh có thể theo dõi được
Ví dụ như:Thí nghiệm phần nhiệt học ở lớp 6 với bài sự nở vì nhiệt của chất lỏng hoặc chất khí giáo viên cần đổ nước nóng khoảng 50oc và đổ từ từ thì học sinh có thể quan sát tốt hiện tượng nở vì nhiệt của chất lỏng...có như vậy mới tạo điều kiện cho học sinh quan sát tốt hiện tượng cần nghiên cứu nhằm giúp các em rút ra các nhận xét và kết luận đúng.
6. Sử lý các hiện tượng và kết quả thí nghiệm
Sau khi tiến hành thí nghiệm xong giáo viên treo bảng phụ để cho các nhóm lần lượt báo cáo hiện tượng hoặc kết quả thí nghiệm mà học sinh thu thập được qua thí nghiệm của giáo viên.
Sau đó dựa vào bảng kết quả của giáo viên giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích kết quả thí nghiệm và rút ra kết luận.
Chú ý: Trong phần này nếu kết quả thí nghiệm có sự sai số nhỏ thì giáo viên phải giải thích thật rõ cho các em để gây được niềm tin của học sinh vào thí nghiệm .
Có thể đưa ra một số gợi ý về việc giải thích kết quả thí nghiệm có sự sai số trong thí nghiệm biểu diễn của giáo viên cho học sinh như sau:
-Thứ nhất giáo viên phải nắm chắc bản chất của hiện tượng trong thí nghiệm để giải thích vấn đề dựa vào đó.
Ví dụ:Như phần nhiệt hởclớp 6 và lớp 8 có yêu cầu trong các thí nghiệm nước phải sôi ở 100oc nhưng thực tế không thể làm nước sôi ở 100oc được nên một số thí nghiệm phần nhiệt có sai số về kết quả một phần là do nguyên nhân này.Hoặc do trong quá trình làm thí nghiệm ta đã bỏ qua nhiệt lượng truyền qua các môi trường bên ngoài.
-Thứ hai có thể giải thích kết quả thí nghiệm có sai số là do:Cách đặt mắt quan sát đọc kết quả và các thiết bị đo chỉ mang tính chất tương đối đó cũng là nguyên nhân thường hay bắt gặp ở các thí nghiệm.
Ví dụ: ở chương quang học lớp 9 phần đo độ lớn các góc tới, góc khúc xạ hoặc phần nhiệt học lớp 6, lớp 8 chúng ta rất hay bắt gặp hiện tượng sai số như nguyên nhân đã nêu.
-Thứ ba: Có thể là do các thiết bị thí nghiệm lâu không dùng đến dẫn đến các tính chất lý, hóa của nó bị ảnh hưởng.
Ví dụ: Như các điện trở nếu lâu không sử dụng đến thì giá trị của nó không còn đúng giá trị đã ghi trên nhãn mác nữa.Hoặc các dụng cụ vônkế, ampe kế ở vật lý 7, 9 nếu lâu không dùng đến kết quả đo cũng không còn chính xác do ảnh hưởng của môi trường bên ngoài dẫn đến điện trở của chúng bị thay đổi.
7. Giáo viên gọi 2,3 học sinh đọc lại nội dung kết luận vừa tìm ra ở trên. Giáo viên nhấn mạnh lại kết luận đó và có thể cho học sinh nêu các ví dụ thực tế có liên quan đến thí nghiệm vừa làm để kắc sâu kết luận tìm được.
B Đối với loại bài trong đó có thí nghiệm thực hành của học sinh:
Để thực hiện dạy tốt được loại bài này thì trước hết giáo viên phải hiểu được thế nào là thí nghiệm thực hành của hoc sinh, cách tổ chức như thế nào và tác dụng của nó ra sao?
+ Thí nghiệm thực hành vật lý: Là thí nghiệm do học sinh tiến hành dưới sự chỉ dẫn của giáo viên để từ đó khám phá kiến thức của bài và nắm bắt kiến thức đó.
+Thí nghiệm thực hành có tác dụng:Giúp học sinh nắm vững hơn nội dung môn Vật lý vì thí nghiệm thực hành thì học sinh được tự tay gây ra hiện tượng vật lý, đo lương các đại lượng, tìm ra quy luật, hiện tượng hoặc kiểm tra lại định luật, hiện tượng, do đó học sinh sẽ tăng cường chú ý hơn, tin tưởng hơn và hiểu vấn đề một cách cụ thể và sâu sắc hơn.
-Thí nghiệm thực hành rèn luyện cho học sinh kỹ năng kỹ xảo sử dụng những dụng cụ đo lường cơ bản như thước, cân, lực kế, ampe kế, vôn kế... do đó có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp đối với học sinh.
-Thí nghiệm thực hành tạo điều kiện cho học sinh tự lực quan sát, phân tích, phán đoán để đi đến kết luận, do đó có tác dụng lớn trong việc phát triển năng lực tư duy của học sinh và giúp các em làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học vật lý.
-Thí nghiệm thực hành còn kích thích ở học sinh óc tò mò khoa học, lòng ham muốn học vật lý, lòng ham muốn vận dụng kiến thức vật lý vào đời sống và rèn luyện cho học sinh ý thức tổ chức, ý thức làm việc có kế hoạch, ý thức bảo vệ của công.
-Vì thí nghiệm thực hành có tác dụng rất lớn như đã phân tích ở trên nên với giáo viên dạy vật lý để tổ chức thành công được loại bài này thông qua các thiết bị dạy học thì cần phải thực hiện các công việc sau:
-Việc chuẩn bị cho bài dạy: Trước hết giáo viên phải đọc trước nội dung bài dạy để xác định được chính xác và đủ mục tiêu của bài học. Từ đó kết hợp với đồng chí phụ trách thiết bị lập ra kế hoạch về số lượng các thiết bị để dùng cho bài học được tốt và cũng như các thí nghiệm biểu diễn của giáo viên thì với thí nghiệm thực hành giáo viên cũng phải tiến hành trước tất cả các thí nghiệm để kiểm tra khả năng thành công của các thí nghiệm đó nhằm gây được niềm tin vào thí nghiệm cho các em.
Đặc biệt với loại bài này giáo viên cần dùng bảng phụ và phiếu học tập để cho các em thảo luận nhận xét và báo cáo kết quả của nhóm mình.
-Với những thí nghiệm nào phức tạp, khó thì giáo viên kết hợp với đồng chí phụ trách thiết bị sẽ bố trí trước cho các nhóm, còn những thí nghiệm nào đơn giản thì có thể cho học sinh tự bố trí thí nghiệm và giáo viên đi kiểm tra uốn ắn kịp thời nếu cần:
Những thí nghiệm khó và có thể gây nguy hiểm mà giáo viên cần bố trí trước cho các em đó là các thí nghiệm có liên quan đến các chất gây bỏng(ví dụ nước nóng phần nhiệt học) hoặc các thí nghiệm có sử dụng tia laze(như phần quang học lớp 9) cũng như các thí nghiệm có sử dụng đến dòng điện xoay chiều 220v...có như vậy thì mới đảm bảo giờ học đạt hiệu quả cao và an toàn.Trong phần này cũng đặc biệt chú ý giáo viên cũng cần có một bộ thí nghiệm của riêng mình để có thể làm mẫu các thí nghiệm khi học sinh 

File đính kèm:

  • docsangkienkinhnghiem vatliDoc.doc