Bệnh lý trào ngược dạ dày - Thực quản

Bệnh trào ngược dạ dày - thực quản (BTNDD-TQ) đã được y văn đề cập đến từ vài chục năm nay, nhưng ở Việt Nam, bệnh này chỉ mới được lưu ý từ vài năm trở lại đây. Một trong các nguyên nhân làm cho BTNDD-TQ chưa được quan tâm đúng mức ở nước ta do triệu chứng quan trọng nhất của bệnh này chưa được tầm soát kỹ, trong khi các triệu chứng khác thì rất dễ bị lầm lẫn và thường được qui cho các bệnh khác như viêm loét dạ dày – tá tràng, viêm thanh quản, viêm mũi xoang

Vậy BTNDD-TQ là gì ? Đó là tình trạng trào ngược từng lúc hay thường xuyên của dịch dạ dày lên thực quản. Do tính chất kích thích của các chất dịch trong dạ dày như HCI, pepsine, dịch mật đối với niêm mạc thực quản, nên sẽ gây ra các triệu chứng và biến chứng.

BTNDD-TQ khá phổ biến ở các nước phương Tây với tần xúat từ 15 – 30% dân số. Ở các nước châu Á tần xuất dao động từ 5 – 15%.

II. Nguyên nhân – Sinh bệnh học của BTNDD-TQ:

Ở trạng thái sinh lý bình thường thỉnh thoảng cũng có hiện tượng trào ngược dịch dạ dày lên thực quản nhưng rất thoáng qua và không gây hệ quả gì. Có một cơ chế bảo vệ chống trào ngược gồm nhiều yếu tố (1) Hoạt động của cơ thắt dưới thực quản (CTDTQ) là yếu tố rất quyết định trong hiện tượng TNDD-TQ. Nó có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ niêm mạc thực quản đối với HCI của dịch dạ dày. Bình thường CTDTQ chỉ dãn mở ra khi nuốt, sau đó sẽ co thắt và đóng kín ngăn không cho dịch DD trào ngược lên TQ. Tuy nhiên, vẫn có lúc trương lực cơ bị giảm và dịch DD trào ngược lên TQ. (2) Khi có sự trào ngược của dịch DD lên TQ, dịch nhày thực quản với bi-carbonat và nước bọt do có tính kềm sẽ trung hòa HCI của dịch vị làm giảm hoặc mất sự kích thích của dịch vị lên niêm mạc TQ. (3) Nhu động của TQ sẽ đẩy dịch trào ngược trở xuống DD.

Khi CTDTQ hoạt động không tốt sẽ dẫn đến BTNDD-TQ. Các yếu tố ảnh hưởng đến rối loạn hoạt động của CTDTQ và cơ chế bảo vệ chống trào ngược có thể do (1) Sự dãn CTDTQ xảy ra thường xuyên hơn và kéo dài hơn, (2) Thoái vị hoành, (3) Rối loạn nhu động thực quản, (4) Giảm tiết nước bọt (thuốc lá) và (5) Các tác nhân làm giảm áp lực CTDTQ như các thuốc secretin, cholécystokinine, glucagon; các thuốc kích thích β thụ cảm, ức chế α , kháng tiết choline, theophylline; các chất cafein, rượu, thuốc lá, chocolate, hay bữa ăn nhiều mỡ

 

doc16 trang | Chia sẻ: lethuong715 | Lượt xem: 503 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bệnh lý trào ngược dạ dày - Thực quản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dạ dày phụ thuộc vào kết quả các khảo sát và tình trạng sức khỏe chung của bạn.
    * Nếu có bệnh tim mạch và bệnh phổi kèm theo, bạn không thể chịu đựng được một cuộc điều trị quá mạnh tay.
    * Trong nhiều trường hợp, ung thư dạ dày có thể đã phát triển đến mức không có phương pháp điều trị nào có tác dụng.
    * Bạn sẽ cần phải được phẫu thuật để trị khỏi bệnh này. Dạ dày của bạn sẽ được cắt bỏ hoàn toàn, và thực quản sẽ được nối với ruột non.
    * Phẫu thuật có thể làm giảm đi triệu chứng tắc nghẽn ở dạ dày. Đầu trên của dạ dày (nằm phía trên khối u) được nối với ruột non, tạo được một vòng nối không đi qua khối u để thức ăn có thể đi vào ruột non một cách dễ dàng.
    * Xạ trị hoặc hóa trị cũng có thể được thức hiện kết hợp với phẫu thuật để cải thiện khả năng sống còn của bạn.
    * Sau khi dạ dày được lấy đi, bác sĩ sẽ theo dõi bệnh của bạn bằng cách thực hiện lại CT scan bụng và nội soi ống tiêu hóa để chắc chắn khối u không tái phát.
Phòng ngừa 
    * Tỉ lệ ung thư dạ dày có thể giảm nếu:
          o Đời sống kinh tế xã hội được cải thiện.
          o Nên sử dụng tủ lạnh để bảo quản thức ăn.
          o Chế độ ăn giàu trái cây và rau.
    * Tại những vùng có nguy cơ ung thư cao như Nhật, nên thực hiện chụp dạ dày có cản quang và nội soi đường tiêu hóa trên định kỳ để có thể phát hiện sớm bệnh.
    * Điều trị Helicobacter pylory ở những bệnh nhân loét dạ dày tá tràng cũng có thể làm giảm nguy cơ ung thư.
    * Những bệnh nhân đã cắt một phần dạ dày cách đây từ 20 năm trở lên nên đi nội soi hằng năm do những người này bị gia tăng nguy cơ ung thư dạ dày sau những loại phẫu thuật như vậy.
    * Không có bằng chứng tán thành việc tầm soát rộng rãi trong nhóm những cư dân có nguy cơ bị ung thư dạ dày thấp.
Tiên lượng
Nếu bạn bị ung thư dạ dày, cơ hội phục hồi của bạn rất thấp. Tình trạng ung thư đã lan đến ổ bụng hay không là yếu tố chính yếu giúp xác định tiên lượng của bạn.
    * Thời gian sống còn lại trung bình thường thấp hơn 1 năm bất kể khối u ban đầu nằm ở vị trí nào. Không có cách điều trị nào hiện thời có khả năng cải thiện được khoảng thời gian sống còn này.
    * Những yếu tố cho biết bệnh nhân sẽ phục hồi kém bao gồm:
          o Sự hiện diện của ung thư trong các hạch bạch huyết.
          o Lan đến các cơ quan nằm ở xa.
          o Khối u nằm ở 1/3 trên của dạ dày.
    * Chỉ có một số ít người có những vấn đề trên sống được thêm 5 năm nữa.
    * Nếu ung thư được phát hiện ở giai đoạn sớm, cơ hội sống còn lâu dài của bạn sẽ vào khoảng 70
Tiêu hoá ở dạ dày
Dạ dày là một túi chứa thức ăn. Tại đây thức ăn chủ yếu được xử lý về mặt cơ (được nhào trộn với dịch vị) biến thành thứ hồ đặc gọi là vị trấp và được tống qua môn vị từng đợt xuống tá tràng. Trong đó một số chất thức ăn được phân giải bước đầu. 
1- Hiện tượng bài tiết và hoá học ở dạ dày.
Hiện tượng hoá học ở dạ dày là hiện tượng phân giải một số chất thức ăn từ những dạng phức tạp, thành những dạng đơn giản hơn, dưới tác dụng của men tiêu hoá dịch vị do các tuyến dạ dày tiết ra.
1.1- Phân vùng bài bài tiết dịch vị.
Các tuyến bài tiết dịch vị được cấu tạo bởi ba loại tế bào, mỗi loại có chức năng riêng.
- Tế bào chính (tế bào thân tuyến) bài tiết men tiêu hóa.
- Tế bào phụ (tế bào cổ tuyến) bài tiết chất nhầy và bicacbonat.
- Tế bào bìa (tế bào viền) bài tiết HCl và yếu tố nội.
Do tỷ lệ phân bố của các loại tế bào ở các vùng khác nhau của dạ dày không đều nhau, nên thành phần dịch vị ở từng vùng cũng không giống nhau. Căn cứ vào đó người ta chia dạ dày ra làm ba vùng (hình 1):
- Vùng I-Vùng hang-môn vị. Các tuyến của vùng này nhiều tế bào phụ, nên tiết ra nhiều chất nhầy, có ít pepsin, còn HCl thì hầu như không có.
- Vùng II-vùng thân vị và đáy vị. ở vùng này không có tế bào phụ, mà chỉ có tế bào chính và tế bào bìa, cho nên dịch tiết không có chất nhầy, chỉ có HCl và pepsin, đặc biệt là vùng bờ cong bé.
- Vùng III-vùng tâm vị, chỉ có tế bào phụ, nên dịch tiết chỉ có chất nhầy và bicacbonat mà không có HCl và pepsin.
Ngoài ra, toàn bộ tế bào niêm mạc bề mặt dạ dày tiết ra chất nhầy hoà tan và không hoà tan.
Dịch vị là dịch hỗn hợp của các vùng nói trên.
1.2- Tính chất và thành phần dịch vị.
Dịch vị là dịch lỏng, trong, hơi nhầy, có chứa 0,3-0,4% HCl nên rất acid. pH dịch vị tinh khiết là 0,8-0,9, khi có lẫn thức ăn dịch vị đạt 1,5-4,5 tuỳ tính chất và số lượng thức ăn.
Số lượng dịch vị ở người trong 24 giờ là 2,0-2,5 lít. Thành phần dịch vị chứa 98-99% nước, còn lại là các chất hữu cơ và vô cơ.
- Các chất hữu cơ gồm: các men tiêu hoá protid và lipid chất nhầy, yếu tố nội sinh, histamin, một số hormon tiêu hoá (gastrin, somatostatin...), một số protein và các chất chứa nitơ...
- Các chất vô cơ gồm có các muối Na+, K+, Ca++, Mg++, Cl-... quan trọng nhất là HCl và NaHCO3. Nồng độ HCl toàn phần của dịch vị là 160mEq%, trong đó có 40mEq ở dạng tự do.
1.3- Tác dụng của dịch vị.
Dịch vị có nhiều tác dụng, song có thể gom thành 4 nhóm tác dụng chính như sau:
1.3.1- Tác dụng của men tiêu hoá.
- Men tiêu hoá protid: pepsin là men tiêu hoá protid ở dạ dày, do tế bào chính tiết ra dưới dạng tiền men (chưa hoạt động) là pepsinogen. Trong môi trường acid của dạ dày (do HCl quyết định) pepsinogen được biến thành pepsin hoạt động.
Pepsin thuỷ phân cầu nối peptid bên trong phân tử protid mà nhóm -NH thuộc acid amin có nhân thơm, biến protid thành các đoạn polypeptid ngắn hơn (như albumose, pepteose, pepton).
Ngày nay bằng phương pháp sắc ký và điện di người ta đã phát hiện có 5-7 loại pepsin có hoạt tính khác nhau và chia thành 2 nhóm là pepsinogen I và pepsinogen II. Có một lượng nhất định pepsinogen ngấm vào máu và thải qua nước tiểu, gọi là unopepsinogen. Mức độ thải qua nước tiểu song song với mức bài tiết nó ở dạ dày. Do đó trong lâm sàng người ta thường định lượng pepsin nước tiểu và uropepsinogen niệu để đánh giá sự bài tiết nó ở dạ dày.
Pepsin thường tăng cao trong bệnh viêm-loét dạ dày, nhất là pepsinogen I.
- Renin (chymosin, presure), còn gọi là men ông sữa, có tác dụng chuyển chất caseinogen thành casein và kết hợp với Canxi tạo thành chất như váng sữa. Men này quan trọng với trẻ em, người lớn nó rất ít tác dụng.
- Men lipase dạ dày là men tiêu hoá lipid. Men này hoạt động tốt ở môi trường kiềm. Vì ở dạ dày có môi trường toan, nên lipase dạ dày hoạt động yếu, chỉ có tác dụng thuỷ phân những lipid đã nhũ tương hoá (như lipid của sữa, của lòng đỏ trứng) biến chúng thành acid béo, monoglycerid và glycerol.
Lipase dạ dày cần cho trẻ em đang bú sữa. Người lớn men này có tác dụng không đáng kể.
1.3.2- Tác dụng của HCl.
HCl là thành phần vô cơ có nhiều vai trò quan trọng trong tiêu hoá.
- Tạo môi trường acid cho sự hoạt hoá và hoạt động của men pepsin.
- Làm trương protid tạo điều kiện cho việc phân giải nó dễ dàng.
- Kích thích nhu động dạ dày, tham gia vào cơ chế đóng tâm vị và đóng mở môn vị.
- Có tác dụng sát trùng chống lên men thối ở dạ dày.
- Tham gia điều hoà bài tiết dich vị, dịch tuỵ, dịch mật và dịch ruột thông qua sự kích thích bài tiết các men tiêu hoá của dạ dày-ruột.
HCl được sản xuất theo một cơ chế đặc biệt, có sự tham gia của men anhydrase cacbonic và “bơm proton”. 
Sơ đồ tổng quat của quá trình tạo acid HCl trong tế bào bìa như sau:
CA, Bơm proton
CO2 + H2O + NaCl -------------------à HCl + NaHCO3 
Hình 2. Sơ đồ minh hoạ sự sản xuất HCL ở tế bào bìa
Dây X và các chất acetylcholin, đặc biệt là histamin kích thích sự bài tiết HCl rất mạnh thông qua thụ thể-H2. iện nay trong lâm sàng đã có thuốc ức chế “bơm proton” là omeprazol và các thuốc kháng thụ thể H2, như cimetidin (tagamet) có tác dụng giảm tiết axit rất hiệu quả.
1.3.3- Tác dụng của chất nhầy và bicacbonat.
Chất nhầy do các tế bào phụ và tế bào niêm mạc bề mặt dạ dày sản xuất, có hai loại chất nhầy-loại hoà tan trong dịch vị và loại không hoà tan cùng bicacbonat tạo nên một màng dai phủ kín toàn bộ niêm mạch dạ dày và hành tá tràng. Cả hai loại chất nhầy cùng bicacbonat có tác dụng trung hoà acid, che chở bảo vệ niêm mạc dạ dày khỏi sự phá huỷ của acid và pepsin.
Khi sự bài tiết chất nhầy và bicacbonat bị rối loạn, khả năng bảo vệ niêm mạc bị giảm, tạo điều kiện thuận lợi cho viêm loét dạ dày-tá tràng phát triển.
Đặc biệt là xoắn khuẩn Helicobacteur Pylori khu trú phá huỷ lớp chất nhầy không hoà tan, làm cho yếu tố acid tự do tác dộng phá huỷ niêm mạc dạ dày.
Các thuốc dùng trong đIũu trị, như aspirin, salyxylat, corticoid gây rối loạn lớp chất nhầy không hoà tan, do đó tổn thương niêm mạc dạ dày ® viêm, loét.
1.3.4- Tác dụng của yếu tố nội (intrinsic factor).
Yếu tố nội (yếu tố Castle) do niêm mạc dạ dày vùng đáy tiết ra, là chất cần thiết cho việc hấp thu vitamin B12 ở ruột non. Vitamin B12 là chất cần thiết cho quá trình tạo hồng cầu. Khi bị viêm teo dạ dày, sẽ thiếu yếu tố nội dẫn đến cơ thể không hấp thu được vitamin B12 gây ra bệnh thiếu máu ác tính, trong máu ngoạI vi có tiền nguyên hồng cầu (Megaloblast). Điều trị bệnh này bằng cách tiêm vitamin B12 cho bệnh nhân (uống không có tác dụng).
1.4- Điều hoà bài tiết dịch vị.
Ngoài lúc tiêu hoá dịch vị được bài tiết một lượng nhỏ, gọi là dịch vị cơ sở. Khi ta ăn uống dịch vị sẽ tăng cường bài tiết do cơ chế phản xạ thần kinh và thần kinh -thể dịch. Quá trình đó trước đây được Pavlov chia ra 4 giai đoạn, ngày nay thống nhất chia thành 3 giai đợan hay 3 pha. 
1.4.1- Giai đoạn đầu (pha đầu). 
Sát trước bữa ăn và khi đang ăn. 
Khi ta chưa ăn, mới ngửi, nhìn hoặc nghe nói về loại thức ăn ưa thích thì dạ dày đã bài tiết dịch vị. Đó là dịch vị tâm lý và được bài tiết theo cơ chế PX CóĐK.
Khi ăn, thức ăn trực tiếp kích thích vào niêm mạc miệng gây tiết dịch vị theo cơ chế PX Không ĐK. Đồng thời mùi, hình dáng thức ăn, tiếng nhai.v.v... tiếp tục kích thích vào các phân tích quan gây bài tiết dịch vị theo cơ chế PXCĐK. Cả hai cơ chế này quyện vào nhau không thể tách rời và được Pavlov gọi là phản xạ phức tạp.
Sự bài tiết dịch vị khi thức ăn mới đến miệng có thể được chứng minh bằng thí nghiệm lỗ dò thực quản ở chó (thí nghiệm bữa ăn giả). Trong thí nghiệ

File đính kèm:

  • doctieu hoa da day.doc
Giáo án liên quan