Tiểu luận Thơ Mới 1930-1945, sự bùng nổ cái Tôi cá nhân và sự bùng nổ ngôn từ

Văn học Việt Nam 1930-1945 là một chặng đường phát triển rực rỡ đẩy nhanh tốc độ hiện đại hóa nền văn học dân tộc. Đây cũng là chặng đường gắn liền với bước phát triển mới của thơ ca Việt Nam dưới tên gọi phong trào Thơ mới.

 Phong trào thơ mới 1930-1945 là một hiện tượng văn học phong phú nhưng khá phức tạp. Xung quanh vấn đề này các nhà phê bình nghiên cứu văn học vẫn còn nhiều điểm chưa thống nhất. Nhưng một điều phải thừa nhận răng Thơ mới đã làm nên “một thời đại trong thi ca”, một sự cách tân văn học diễn ra vô cùng gay gắt và quyết liệt. Chưa bao giờ không khí thi ca lại ồn ào và giàu sức sống như thế. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã khẳng định: “Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu.” Biết bao nhiêu vì tinh tú đã xuất hiện trên thi đàn . Mỗi vì tinh tú có một vị trí riêng, một ánh sáng riêng nhưng nó đã góp phần tạo nên một bầu trời thi ca lung linh đầy màu sắc. Thế giới ngôn từ văn học chưa bao giờ lại phong phú đa sắc, đa thanh như thế. Thế giới tâm hồn của người thi sĩ cũng chưa bao giờ đa tình đa cảm đến như vậy. Chỉ có thể nói rằng Thơ mới 1930-1945 là kết quả của sự bùng nổ cái tôi cá nhân và sự bùng nổ của ngôn từ.

 

doc19 trang | Chia sẻ: nguyenngoc | Lượt xem: 8669 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thơ Mới 1930-1945, sự bùng nổ cái Tôi cá nhân và sự bùng nổ ngôn từ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 hồn ta được phảng phất gần ngươi
	-Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”
	(Nhớ rừng)
	Và chỉ có trong Thơ mới là nói đến tình yêu. Và chỉ có trong tình yêu, cái Tôi cá nhân mới được thể hiện một cách triệt để nhất. Thơ xưa không bao giờ nói đến tình yêu nam nữ nên bước chân nàng Kiều “Xăm xăm băng lối vườn khuya” trở thành hiện tượng độc đáo đầy mai mỉa thì tình yêu trong Thơ mới chính là sự giải thoát khát vọng hạnh phúc đầy nhân văn của con người. Những từ “anh”, “em” mang đầy giá trị về cái Tôi cá nhân xuất hiện rất nhiều trong Thơ mới. Tình yêu là đề tài chủ yếu mà các nhà thơ mới ai cũng bước chân vào và khám phá nó với nhiều cung bậc cả buồn đau lẫn hạnh phúc:
	Những lưu luyến, bâng khuâng của buổi đầu gặp gỡ:
	“Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
	Lần đầu rung động nỗi thương yêu”
	(Xuân Diệu)
	Sự say đắm, dào dạt trong tình yêu:
	“Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh
	Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!”
	(Xuân Diệu)
	Sự chán chường, thất vọng:
	“Lòng anh như biển sóng cồn
	Chứa muôn con nước nghìn con sóng dài
	Lòng em như chiếc lá khoai
	Đổ bao nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu”
	(Nguyễn Bính)
2.2 Cái tôi cá nhân và những con đường thoát ly trong Thơ mới:
	Chủ thể của Thơ mới là những nhà trí thức Tây học đang hàng ngày, hàng giờ đòi hỏi thể hiện mình, khẳng định mình như một cá nhân. Cùng với sự tiếp xúc và ảnh hưởng sâu sắc của văn học phương Tây đặc biệt là thơ lãng mạn Pháp, Thơ mới đã tạo nên những nét riêng và cá tính, phong cách sáng tạo của từng nhà thơ. Với những khát vọng được sống hết với những giá trị tốt đẹp của con người nhưng các nhà thơ mới lại phải đối diện với cuộc sống kim tiền đầy ô trọc của xã hội thực dân, các nhà Thơ mới nhanh chóng rơi vào trạng thái cô đơn, bơ vơ, không lối thoát. Tuy nhiên trong tiềm thức của họ vần âm thầm chảy mãi dòng suối văn hóa Việt và tâm hồn dân tộc. Bế tắc trước cuộc sống, họ tìm đến những con đường thoát ly trong thơ mới. Cái tôi cá nhân được phân hóa ra làm nhiều kiểu, họ góp phần làm dấy lên một cuộc cách mạng trong văn chương và coi đó như là nơi tốt nhất để thực hiện khát vọng, giá trị riêng, coi văn chương “như một tiếng thở dài chống chế độ thuộc địa” (Trường Chinh). Nhìn chung, có những con đường thoát ly sau trong Thơ mới:
	Trốn vào tình yêu là con đường phổ biến nhất của thơ ca lãng mạn đương thời mà tiêu biểu là Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử… các nhà thơ trốn vào tình yêu nhưng vẫn mang theo cái Tôi mong manh, đầy bất trắc:
	Hãy xếp lại muôn vàn ân ái
	Đừng trách nhau, đừng ái ngại nhau
	Thuyền yêu không ghé bến sầu
	Như đêm thiếu phụ bên lầu không trăng…
 	(Lưu Trọng Lư)
	Trốn vào quá khứ là con đường tìm về với những vẻ đẹp cổ xưa của văn hóa dân tộc mà tiêu biểu là Vũ Đình Liên, Huy Cận … Các nhà thơ tìm về với quá khứ như một sự chạy trốn khỏi hiện tại ngột ngạt nhưng rồi vẫn không dứt khỏi một cái Tôi cá nhân mang nặng nỗi ưu tư, ngơ ngác:
	Lòng ta là những hàng thành quách cũ
	Tự ngàn năm bỗng vẳng tiếng loa xưa
	(Vũ Đình Liên)
	Trốn vào thế giới siêu hình của tôn giáo, trốn vào trụy lạc với những cơn say của rượu và khói thuốc phiện như trong thơ Vũ Hoàng Chương và điên loạn như trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê… nhưng vẫn hoài ám ảnh bởi cái Tôi cá nhân đầy sầu muộn, cô dơn:
	“Say đi em! Say đi em!
	Say cho lơi lả ánh đèn
	Cho cung bực ngả nghiêng, điên rồ xác thịt
	Rượu, rượu nữa và quên, quên hết!
	…
	Nhưng em ơi
	Đất trời nghiêng ngửa
	Mà trước mắt thành sầu chưa sụp đổ
	Đất trời nghiêng ngửa
	Thành sầu không sụp đổ, em ơi!”
	(Vũ Hoàng Chương)	
	Cái Tôi trong thơ mới trốn vào nhiều nẻo, có nhiều màu sắc phức tạp khác nhau nhưng ở đâu nó cũng buồn và cô đơn. Không có lối thoát, không có tương lai, chỉ thấy đất trời tối tăm mù mịt, đó là cái buồn, cái cô đơn ngay trong bản chất từ khi thơ mới cất tiếng chào đời. Hoài Thanh đã nhận xét: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với hàn mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận… Thực chưa bao giờ thơ Việt nam buồn và xôn xao đến thế.”
2.3. Cái tôi cá nhân và sự thay đổi về hệ thống thi pháp.
	Thơ mới với sự xuất hiện của cái tôi cá nhân đã mang theo nhiều khát vọng cá nhân và đi theo đó là nhu ccaafu đổi mới về thi pháp và tư duy thơ, cho sự sáng tạo những hình thức biểu hiện phong phú mang sắc thái độc đáo của phong cách cá nhân. Giáo sư Hồ Thế Hà đã quan niệm “ Thơ Mới đã thực sự làm một cuộc cách mạng trong thi ca. Họ quan niệm về con người, về không gian, thời gian cũng như những mối tương quan khác với môi trường, thiên nhiên hoàn toàn khác trước và thể hiện cách nhìn ấy vào từng tác phẩm một cách thành công.” 
	Thư nhất, về quan niệm con người, cái Tôi cá nhân đã nhìn nhận con ngươi ở một vị thế khác hẳn với con người trong văn học trung đại. văn học trung đại phủ nhận con người cá nhân và đề cao con người cộng đồng, con người công dân. Con người phải khuất phục bởi “mệnh trời”, bởi ý vua, con người phải nép mình vào thiên nhiên, phải phục tùng đạo đức. Con người trong Thơ mới được đặt ở vị trí là trung tâm của những mối quan hệ. Thơ mới đề cao giá trị bản ngã, cái nhìn lãng mạn đã đưa con người ngang tầm vũ trụ thậm chí cao hơn cả vũ trụ:
	“Ta là một, là riêng, là thứ nhất
	Không có ai bè bạn nổi cùng ta”
	(Xuân Diệu)
	“Tôi chỉ là một khách tình si
	Ham vẻ đẹp có muôn hình, muôn thể
	Mượn cây bút nàng Ly tao tôi vẽ
	Và mượn cây đàn ngàn phím tôi ca”
	(Thế Lữ)
	Thứ hai, cảm thức về thời gian trong thơ mới cũng là một nét độc đáo. Thơ mới luôn nhìn đời bằng con mắt thời gian. Thời gian trong Thơ mới luôn gắn liền với tâm trạng. Với Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư… thời gian hiện tại luôn gắn liền với nhịp sống hối hả, vội vàng , gấp gáp:
	“Mau lên chứ, vội vàng lên với chứ
	Em, em ơi, tình non sắp già rồi…”
	“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt 
	Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”
	(Xuân Diệu)
	Còn thời gian quá khứ thì thường gắn với sự tiếc nuối vì những gì đẹp đẽ đã vội đi qua:
	“Ai hay trở lại mùa thu trước
	Nhặt lấy cho tôi những lá vàng
	Với cả hoa tươi muôn cánh rữa
	Về đây đem chắn nẻo xuân sang”
	(Chế Lan Viên)
	Thứ ba, cảm nhận về không gian nghệ thuật trong Thơ mới cũng là bước đột phá mới mẻ so với thơ cũ. Nếu thiên nhiên trong thơ xưa là tiêu chuẩn của cái đẹp, là thước đo vẻ đẹp con người thì đến Thơ Mới, cách nhìn nhận ấy không còn nguyên vẹn nữa. Thiên nhiên, vũ trụ được đánh giá theo cái nhìn trạng thái cảm xúc của con người. Độ cao rộng, mênh mông của thiên nhiên bây giờ được cảm nhận thông qua không gian ngập tràn nỗi cô đơn của Huy Cận:
	“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
	Con thuyền xuôi mái nước song song
	Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
	Củi một cành khô lạc mấy dòng”
	(Huy Cận)
	“Sương nương theo trăng ngừng lên trời
	Tương tư nâng lòng lên chơi vơi…”
	Không gian được cảm nhận bằng sự cảm nhận tinh tế của các giác quan và đặc biệt là xúc cảm:
	‘Không gian như có dây tơ
	Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu
	Êm êm chiều ngẩn ngơ chiều
	Lòng không sao cả, hiu hiu khẽ buồn”
	(Xuân Diệu)
	Và có khi, không gian nghệ thuật trong Thơ mới còn được cảm nhận ở chiều sâu của không gian văn hóa, tập trung tất cả vẻ đẹp của truyền thống gắn với khát vọng của cá nhân:
	“Hoa chanh nở giữa vườn chanh
	Thầy u cùng với chúng mình chân quê
	Hôm qua em đi tỉnh về
	Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều”
	(Nguyễn Bính)
	Có thể nói, cái Tôi cá nhân là một cuộc giải phóng vĩ đại trong thi ca Việt Nam. Từ đây, thơ Việt Nam bước vào một thời kỳ mới phát triển rực rỡ với những phong cách thơ độc đáo, mỗi người mỗi vẻ làm nên “một thời đại trong thi ca”.
	3.Thơ mới – sự bùng nổ của ngôn từ.
	Một biểu hiện khá rõ rệt của tinh thần dân tộc trong Thơ mới là lòng yêu thương Tiếng Việt. Mặc dù chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học phương Tây đặc biệt làvăn học Pháp nhưng Thơ mới vẫn giữ gìn và không ngừng phát huy vẻ đẹp của tiếng nói dân tộc trong sự bùng nổ của ngôn từ. trong những năm dài nô lệ, tiếng Việt không những không bị thoái hóa, lai căng mà lại càng trở nên trong sáng và giàu có hơn. Sự bùng nổ ngôn từ trong Thơ mới chính là sự tiếp thu tinh hoa nền thi ca nhân loại dựa trên phương tiện ngôn ngữ tiếng Việt để tạo nên những nét độc đáo trong thơ.
	3.1 Thơ Mới chống lại các quy luật gò bó của thơ cũ đã tỏ ra lỗi thời.
	Hệ thống thi pháp của văn học trung đại mang nặng tính quy ước, khuôn khổ về âm thanh, nhịp điệu, thể loại.Điều này vẫn còn ảnh hưởng trong các thế hệ nhà thơ đầu tiên của thế kỉ XX như Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu người mà Hoài Thanh đánh giá là “đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kì đang sắp sửa”, nhưng đến thế hệ của Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, … thì Thơ mới đã phá vỡ cái hàng rào thi pháp cũ kĩ đó để xây nên nền thi ca mới bằng những viên gạch mới.
	Trước hết, về âm thanh, Thơ mới thể hiện nhiều kiểu dạng âm thanh khác nhau, với sự phong phú về giai điệu gợi nên những tâm trạng giàu cảm xúc:
	“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
	Hổn hển như lời của nước mây
	Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc
	Nghe ra ý vị và thơ ngây”
	(Hàn mặc Tử)
	Âm thanh đọng lại trong từng tiếng thơ, độ ngân rung “vắt vẻo” hòa nhịp với âm trầm “hổn hển” thể hiện sự chuyển đổi cảm giác rất tinh tế. Các từ láy “vắt vẻo”, “hổn hển”, “thầm thĩ” là ba cung bậc của âm thanh mùa xuân đang chín, thấm sâu vào hồn người đến nhẹ nhàng lắng dịu, chan chứa thương yêu.
	Âm thanh trong thơ mới chính là sự kết hợp rất tự do, thoải mái giữa các vần bằng, vần trắc kết hợp những từ láy tượng thanh, độ dài của câu thơ tạo nên nhưng âm thanh sống động vô cùng như “tiếng trúc tuyệt vời” của Thế Lữ:
	“Tiếng địch thổi đâu đây
	Cớ sao mà réo rắt?
	Lơ lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngắt
	Mây bay … gió quyến mây bay,,,
	Tiếng vi vút như khuyên van, như dìu dặt,
	Như hắt hiu cùng với gió heo may.”
	(Thế Lữ”)

File đính kèm:

  • docTho moi Viet Nam 19301945 la ket qua cua su bung no cai toi ca nhan va su bung no cua ngon tu.doc