Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – di tích lịch sử quê hương Bình Định

Bãi biển Quy Nhơn

Thiên nhiên đã hào phóng ban tặng cho Quy Nhơn những bãi biển tràn ngập ánh nắng, mặt nước trong xanh, thu hút đông đảo khách du lịch đến đây hòa mình vào cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, biển cả bao la với những Bờ cát dài phẳng lặng/ Soi ánh nắng pha lê (Thơ Xuân Diệu) ngập tràn gió lộng, xen giữa những bãi biển lấp lánh cát vàng, sóng xanh và thưởng thức các món hải sản đặc sắc của địa phương:

Những bãi cát vàng trải dài.

Bãi Trứng

Bãi Trứng hay còn gọi bãi tắm Hoàng Hậu (ngày trước mỗi lần ghé Quy Nhơn, Nam Phương hoàng hậu đều đến đây tắm biển) nằm trong khu danh thắng Ghềnh Ráng (rộng 35 ha) cách thành phố Quy Nhơn 3 km về phía Đông – Nam. Bãi tắm này ghi dấu với du khách với vẻ đẹp của cung đường biển uốn lượn, cát trắng, biển xanh và vô số những tảng đá tròn trịa trên bờ.

Ngoài tắm biển, đến đây, bạn có thể tham quan vẻ đẹp của Gềnh Ráng, quần thể sơn thạch chạy sát biển, đá chất chập chùng thành hang, thành rạng, ghé mộ nhà thơ Hàn Mạc Tử, tìm hiểu về Lầu Ông Hoàng đó với Ánh trăng treo nghiêng nghiêng, hay xuôi ra đảo có tên là Hòn Đất Bi khám phá những hang động kỳ thú

.

 

doc30 trang | Chia sẻ: minhanh03 | Lượt xem: 6732 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – di tích lịch sử quê hương Bình Định, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 trượng  (khoảng 8m-TG), bề ngang chừng một trượng, lởm chởm nhiều đá, nước thường bốc hơi như nước sôi, chảy ra hơn 10 trượng khí nóng mới bớt dần. Đến thôn Tân Hòa thì hợp với chằm nước đục mà cùng chảy vào sông Nha Đoài”. Đấy là mô tả của sử cũ. Hiện trạng có thể thấy suối phát nguyên từ vùng núi thấp phía bắc, đến thôn Hội Vân nước chảy vào một hồ nhỏ rộng chừng 400m2, sâu hơn 1m. Đáy hồ là những tảng đá lởm chởm chen kẽ nhau. Từ đó mạch nước nóng phun lên ùng ục, khói tỏa nghi ngút giống như một chảo nước nóng đang sôi. Hồ nằm lọt giữa một thung lũng cát mênh mông, xung quanh có núi non vây bọc. Chếch xa xa về phái Đông -Bắc là dãy núi Bà hùng vĩ, vào những ngày lạnh trời, nhất là vào những lúc sớm mai, hơi nước bốc lên tụ lại thành những làn khói mây mờ mờ làm cho cảnh vật trở nên huyền ảo. Khi trời nắng nóng, sương mù tan biến trả lại cho mặt nước một khoản không trong vắt, có thể nhìn thấu những vòi nước phun lên từ đáy, giống như những con rồng đang giỡn đùa giữa dòng nước. Quanh miệng hồ là những dải cát dài trắng mịn làm thành một bãi phơi nắng lí tưởng.
Suối nước nóng.
Là một danh thắng du khách có thể đến chiêm ngưỡng, thưởng ngoạn cảnh đẹp, nghỉ ngơi giải trí, Hội Vân còn nổi tiếng và hấp dẫn khách đến từ mọi miền nhờ nguồn nước khoáng thiên nhiên giàu khả năng trị liệu đối với nhiều loại bệnh khác nhau. Linh thiêng hóa khả năng chữa bệnh của nước suối, dân địa phương đã lưu truyền một sự tích kể rằng, xưa kia, khi Bình Định còn là quốc đô của Champa, trong hoàng tộc có một công nương sắc đẹp mê hồn nhưng bỗng mắc một chứng bệnh kì quái, không một danh y nào có thể chữa nổi. Da dẻ nàng tự dưng nổi mụn xù xì, khiến nàng trở nên xấu xí và vô cùng khổ sở vì ngứa ngáy. Nàng xấu hổ phải suốt ngày dấu mình trong cung cấm, suốt ngày rầu rĩ. Buồn chán vì bệnh tình, công nương héo hon gầy mòn. Phụ hoàng dẫu đầy kho vàng bạc châu báu mà vẫn vô phương cứu giúp.
Rồi đến một ngày, nhân tổ chức một cuộc đi săn trong rừng, vị Quốc vương nọ đã cho con gái đi cùng những mong giúp nàng khuây khỏa. Khi đến vùng này thấy trước mặt có một áng mây trắng tụ lại khác thường, quốc vương cho quân lính đi trước dò đường thì thấy một suối nước nóng. Công nương đã xuống tắm ở đây. Và kì lạ thay nàng tự nhiên thấy hết ngứa ngáy, trong người cảm thấy khoan khoái dễ chịu. Nàng xin với vua cha cho hạ trại, nán lại bên suối một thời gian để được ngày ngày ngâm mình trong dòng nước nóng. Thế rồi, ngày qua ngày bệnh tình của công nương qua khỏi lúc nào không biết. Mọi người cho rằng đó là suối nước mà thần tiên đã ban cho. Chính vì vậy con suối này có tên gọi là suối Tiên.
Đó là truyền thuyết. Còn trên thực tế, chẳng biết tự bao giờ, tiếng đồn về sự linh nghiệm trong chữa trị bệnh tại của suối nước Hội Vân đã lan truyền đi khắp cả nước. Người ta kéo nhau đến Hội Vân như đi trẩy hội, không chỉ những người có bệnh mà ngay cả những người khỏe mạnh cũng muốn đến tận nới để mục kích cảnh thần tiên và tắm thử nước suối Tiên. Họ còn múc nước đem về làm quà cho bà con, thân hữu.
Khả năng chữa trị một số bệnh của suối khoáng Hội Vân, thực ra cũng không phải là điều gì huyền bí. Từ thời Pháp thuộc, các nhà chuyên môn đã tới đây nghiên cứu, khảo sát. Trong vòng mấy chục năm qua, các nhà khoa học Việt Nam cũng đã tiến hành nhiều cuộc khảo nghiệm và đi tới những kết luận khoa học về khả năng trị liệu của nước suối Hội Vận.
Trong khoảng thời gian từ năm 1920 đến 1957 đã xuất hiện nhiều bài báo của các tác giả Madrole, D.Sallet, Flendel và H. Fontaine công bố các kết quả nghiên cứu về thành phần của nước khoáng. Năm 1965 công việc này lại được tiếp tục bởi một nhóm các nhà khoa học Mỹ. Từ sau năm 1975 các chuyên gia Bộ y tế cùng với chuyên gia quốc tế đã tiến hành nghiên cứu một cách hệ thống và đưa ra những đánh giá khoa học về nguồn nước tự nhiên này. Đó là loại nước khoáng có nhiệt độ dao động từ 70-800C, vô trùng, chứa khoảng 20 chất khoáng có ích với những nồng độ thích hợp có tác dụng tốt cho việc chữa bệnh. Từ năm 1978 một nhà điều dưỡng đã được xây dựng và trong tương lai không xa tỉnh Bình Định sẽ nâng cấp nhà điều dưỡng này thành một trung tâm điều dưỡng có tầm cỡ quốc gia với quy mô 300 giường bệnh nội trú. Chắc chắn với cảnh trí thiên nhiên kì thú và nguồn “thuốc tiên” thiên nhiên vô tận này, thắng cảnh Hội Vân sẽ hấp dẫn thêm vô vàn du khách tới thăm.
Đảo yến Quy Nhơn
Gọi là “đảo” nhưng thực ra xứ sở của loài chim yếu nằm trên bán đảo Phương Mai. Dãy Triều Châu ăn ra biển, trải dài chừng 15km, tạo thành những ngọn núi nhấp nhô, trùng điệp với tên gọi thật ngộ nghĩnh: Hòn Mai, hòn Chóp Vung, núi Cột Cờ, Núi Đenvà trong số đó, ngọn núi án ngữ phía Nam mang tên Hòn Yến. Cứ mối mùa xuân đến tiết trời ấm áp, chim yến rủ nhau từng đàn đông nghịt đến đây làm tổ. Chính vì vậy mà mũi đất tận cùng của bán đảo cũng được gọi là Mũi Yến. Bán đảo Phương Mai như một con khủng long khổng lồ nằm che chắn sóng to gió lớn cho thành phố Quy Nhơn. Thiên nhiên nơi đây vừa tạo nên một bức tranh thủy mặc tuyệt đẹp, vừa ban tặng cho con người một kho báu mà không phải nơi nào cũng có. Đó là yến sào (tổ chim yến)-một đặc sản cao cấp được cả thế giới ưa chuộng.
Hang Cả hiện có số lượng tổ yến lớn nhất ở Bình Định.
Đảo yến trước đây thuộc địa phận hai thôn Xương Lý và Hương Mai. Phía Nam thôn Xương Lý là đầm Nha Phiên, phía Bắc là thôn Hưng Lương (cả hai thôn này đều nằm trong xã Nhơn Lý). Những người sinh cơ lập nghiệp đầu tiên tại Xương Lý thuộc dòng họ Nguyễn quê gốc ở Nghệ An, cho đến nay đã được 10 đời. Thôn Hương Mai chính là 4 thôn Hải Giang, Hải Đông, Hải Nam và Hải Minh, nay thuộc xã Nhơn Hải. Trước năm 1955, Nhơn Lý và Nhơn Hải thuộc tổng Trung An, huyện Phù Cát, sau năm 1955 cắt về huyện Tuy Phước, hiện nay thuộc thành phố Quy Nhơn.
Đảo yến là một cảnh quan thiên nhiên kì thú, hấp dẫn bởi những hang động thiên tạo có tuổi hàng vạn năm với những hòn đá có nơi cao tới cả trăm mét. Lòng hang động hiểm trở, cheo leo là nơi thích hợp cho loài chim yến đến làm tổ. Trên đảo yến có tất cả 30 hang lớn nhỏ, tập trung chủ yếu ở hai xã Nhơn Hải và Nhơn Lý. Trong mỗi hang nhỏ như hang Rừng Cao, hang Dơi, hang Ba Nghé, hang Cạn, hang Hẹp, hang Hầm Xe, hang Phanhhàng năm cũng có thể thu được từ 100 đến 300 tổ yến. Còn những hang lớn như hang Cả, hang Đôi Trong, hang Đôi Ngoài, hang Hích, hang Sức Khỏe, hang Nghìm, hang Luông, hang Khô, hang Cân, hang Cỏ, đặc biệt là những hang có cửa quay về hướng đông hoặc Đông- Nam, thoáng mát, trần hang có nguồn nước ngọt rịn nhỏ qua khe đá, bên dưới là sóng biển dập duềnh, hàng năm có thể thu được 14 đến 15 ngàn tổ.
Nếu có dịp đến đảo yến vào mùa Xuân, ta sẽ thấy từng đàn chim yến bay rợp trời, gọi nhau ríu rít. Mặc dù sống theo bầy đàn như vậy nhưng chim yến lại là loài sống thành từng đôi với nhau không hề nhầm lẫn. Các tài liệu của các nhà nghiên cứu, trên đảo yến Quy Nhơn chủ yếu có hai loài: Yến cỏ và Yến sào. Yến cỏ thân hình lớn hơn yến sào, làm tổ bằng cỏ, rác lấy từ các mỏm núi. Yến sào mới là loài chim quý. Loài yến này có thân hình nhỏ như chim sẻ nhưng bay rất khỏe. Chúng kiếm ăn bằng cách vừa bay vừa đớp mồi trên biển. Người ta nói loài yến sào có thể bay 10 giờ liên tục không nghỉ. Chúng làm tổ không phải bằng cây cỏ mà bằng chính nước dãi của mình. Mỗi ngày một ít, chim yến tự tiết ra nước dải, kéo thành sợi, quây lại làm tổ. Sau một thời gian, tổ yến khô đi trông giống như những chiếc vành tai gắn chặt vào trần hang vách đá. Khi hoàn thành tổ vừa đủ để nằm lọt thân mình, yến bắt đầu sinh sản.
Tổ yến là một nguồn lợi từ xưa đã được nhân dân địa phương biết đến. Theo các tài liệu lịch sử, nghề khai thác yến sào ở Bình Định có từ lâu đời. Đến thế kỷ 19, trong mục nói về sản vật Bình Định, sách Đại Nam nhất thống chí chép rằng: “Yến sào sản ở các đảo ngoài biển, có thuế, hàng năm mỗi người phải nộp 10 cân”. Tổ yến cũng có nhiều loại. Yến sào màu đỏ hoặc hồng rất quý và đắt giá nhất, yến quan tai
to có màu trắng ngà, yến thiên tai mỏng và nhỏ và yến bãi là loại chất lượng kém nhất.
Lấy tổ yến là một nghề nguy hiểm. Trước đây, ngoài lòng dũng cảm, nghề này còn có những bí quyết mang tính cha truyền con nối. Ngày nay nghề này đã được quản lí và để hạn chế tai nạn trong quá trình khai thác, người làm nghề được huấn luyện kỹ thuật cẩn thận. Tuy nhiên, muốn trở thành người khai thác giỏi, ngoài kiến thức và kinh nghiệm còn phải có tinh thần vững vàng, sự bình tĩnh gan dạ và động tác khéo léo. Để có thể lấy tổ yến trên vách và trần hang, người ta bắt các giàn giáo bằng tre liên kết lại với nhau. Người khai thác có thể đi lại trên giàn giáo như những chiếc cầu bắt vắt vẻo dọc ngang. Có những hang cao, giàn giáo phải dùng đến 300 cây tre. Những cột dọc phải nối từ 4 đến 5 cây tre mới lên tới đỉnh. Cách lấy tổ yến cũng hết sức công phu. Tai nào xa không với tay được, người ta dùng gậy đầu đóng đinh ghim vào tổ để lấy ra. Vào những khi khí hậu khô hanh, trước khi lấy còn phải dùng nước phun vào tổ yến cho mềm để tránh bị vụn nát.
Trước kia, nghề khai thác yến hoàn toàn tự phát và người làm nghề phải đóng thuế cao nên khi vào vụ, người ta ra sức tận thu, nguồn lợi thiên nhiên này đứng trước nguy cơ bị cạn kiệt. Ngày nay, do ý thức được tầm quan trọng của việc duy trì và phát triển nguồn lợi, công việc khai thác phải tuân thủ theo một lịch trình nghiêm ngặt. Tháng Giêng, tháng Hai là mùa yến làm tổ sinh sản, sau đó một tháng mới được thu hoạch vụ đầu. Vụ thứ hai phải chờ đến khi chim con cứng cáp biết bay đi kiếm mồi mới thu hoạch. Vụ thứ ba khai thác ít, chủ yếu chỉ dưỡng cho đàn yến có điều kiện tăng trưởng bầy, đàn. Đến nay sản lượng yến thu hoạch hàng năm của Bình Định ước khoảng hơn 700kg. Đây là một mặt hàng xuất khẩu đem lại nguồn lợi kinh tế cao cho tỉnh.
Đến với đảo yến, du khách không những được chiêm ngưỡng cảnh quan ngoạn mục bên ngoài, nếu có dịp vào sâu trong hang, khách còn có dịp đắm mình trong khung cảnh hoành tráng, kì vĩ do thiên nhiên tạo nên. Trên các vách đá, xen lẫn những giọt nước tí tách rơi là những chấm trắng li ti tựa như một bầu trời đầy sao của những đêm hè, các tổ yến đan khít vào

File đính kèm:

  • docDANH THANG BINH DINH.doc