Tạp chí Thông tin toán học - Tập 6 Số 3 Tháng 10 Năm 2002
Hiện nay, sách tham khảo về toán rời rạc của chúng ta chưa nhiểu tuy đã có một vài cuốn sách về toán rời rạc đã được in và bán. Tôi cũng có viết một vài cuốn: "Một số kiến thức cơ sở về hình học tổ hợp", "Định lí và vấn để về đồ thị hữu hạn", "Một só́ kiến thức cơ sở về lý thuyết Graph" và "Lý thuyết tổ hợp và bài toán ứng dụng" in tại nhà XB GD. Có ý kiến phản ánh từ nhiều giáo viên là những cuốn sách này quá khó và cao hơn trình độ học sinh phổ thông. Nếu người đọc theo dõi chặt chẽ các kỳ thi toán quốc tế, thì có thể thấy những cuốn sách này được viết theo đúng yêu cầu về chất lượng cũng như kiến thức cắn phải có về toán rời rạc.
ệ ph−ơng trình đại số nào đó). Thành công của ông bắt nguồn từ t− t−ởng của Grothendieck (Giải th−ởng Fields năm 1966) về việc xây dựng lý thuyết các “môtiv”, nhằm thống nhất hai ngành toán học là Số học và Hình học. Voevodsky đã xây dựng một lý thuyết đồng điều mới cho các đa tạp đại số, và mặc dù rất trừu t−ợng, lý thuyết này đ−ợc áp dụng để chứng minh một giả thuyết của Milnor tồn tại 30 năm nay. Lý thuyết của Voevodsky, theo đánh giá của Ban giải th−ởng Fields, là một b−ớc tiến đáng kể trong việc khẳng định cách nhìn của Grothendieck về sự thống nhất của Toán học. M. Sudan Ngoài giải th−ởng Fields, kể từ năm 1982, Hội toán học quốc tế đặt thêm Giải th−ởng Nevanlinna giành cho các công trình xuất sắc về lĩnh vực toán học trong công nghệ thông tin. Lần này, Giải th−ởng Nevanlinna đ−ợc trao cho Madhu Sudan. Ông sinh năm 1966 tại Madras (ấn Độ), tốt nghiệp Đại học công nghệ ấn Độ năm 1987, hiện nay là giáo s− tại Đại học công nghệ Massachusetts (Mỹ). Sudan đ−ợc trao giải th−ởng về những đóng góp xuất sắc trong lý thuyết kiểm tra chứng minh, lý thuyết độ phức tạp tính toán và lý thuyết mã sửa sai. Thành tựu nổi bật nhất của ông có thể mô tả nh− sau: với một chứng minh của mệnh đề toán học nào đó, lý thuyết của Sudan cho phép viết logic cơ bản của chứng minh thành một chuỗi các bít, có thể nhập vào máy tính. Để kiểm tra, ta chỉ cần kiểm tra một số rất ít các bít trong chuỗi nói 8 trên và cho câu trả lời (với xác suất cao) là chứng minh có đúng hay không! Thêm một thông tin đáng phấn khởi đối với các nhà toán học: kể từ năm 2003, Viện hàn lâm khoa học Na Uy sẽ trao giải th−ởng hàng năm mang tên Abel cho các nhà toán học có công trình xuất sắc nhất. Giải th−ởng này hoàn toàn t−ơng tự nh− giải Nobel cho các ngành khoa học khác, với số tiền th−ởng khoảng 800 ngàn USD/1giải. Tại mỗi kỳ Đại hội, ngoài những ng−ời đ−ợc giải th−ởng ra thì vinh dự nhất có lẽ là những ng−ời đ−ợc chọn trình bày Báo cáo mời toàn thể và Báo cáo mời tại các tiểu ban. Đại hội lần này có 20 báo cáo mời toàn thể và khoảng 170 báo cáo mời tại 19 tiểu ban. Có thể nói một cách ngắn gọn, các báo cáo mời toàn thể không chỉ trình bày những công trình tiêu biểu cho một ngành toán học nào đó, mà còn thể hiện rõ mối liên quan chặt chẽ giữa các ngành khác nhau. Hơn nữa, không chỉ là sự liên quan giữa các ngành toán học, mà còn là sự liên quan giữa Toán học với Vật lý, Sinh học, và các vấn đề thực tiễn. Nhân dịp Đại hội toán học quốc tế, Hội toán học quốc tế tổ chức gần 40 Hội nghị vệ tinh về các lĩnh vực khác nhau của toán học. Việt Nam cũng vinh dự đ−ợc đăng cai tổ chức một trong các hội nghị nh− vậy (đó là Hội nghị về Giải tích toán học, tổ chức tại Viện Toán học từ 13 đến 17/8/2002). Các hội nghị vệ tinh khác diễn ra tại Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản, Nga. Từ Đại hội toán học quốc tế lần thứ 24 trở về dự Hội nghị toán học toàn quốc lần thứ 6, tôi thật sự thấy vui mừng vì Hội nghị của chúng ta cũng đ−ợc tổ chức một cách rất “chuyên nghiệp”, với nhiều báo cáo khoa học chất l−ợng rất cao. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, ở ta ch−a có những công trình và những kết quả có tầm bao quát đ−ợc nhiều ngành khác nhau. Một điểm nữa cần l−u ý là Hội nghị toán học toàn quốc cho đến nay ch−a bao giờ có Tiểu ban Lịch sử toán học, trong khi ở các kỳ Đại hội toán học quốc tế thì không bao giờ thiếu tiểu ban này. Quả thật, vấn đề nghiên cứu và giảng dạy lịch sử toán học ở n−ớc ta cho đến nay ch−a đ−ợc quan tâm. Đây là điều cần sớm khắc phục. Từ Bắc Kinh đến Huế, tôi luôn luôn cảm nhận đ−ợc điều này: cộng đồng toán học, dù ở bất kì quốc gia nào đều có những nét rất chung: giản dị, cởi mở, không câu nệ hình thức, luôn say s−a với cái mới. Và hình nh− sau mỗi cuộc gặp gỡ với cộng đồng toán học, dù ở trong n−ớc hay ở n−ớc ngoài, tôi đều cảm thấy yêu thêm nghề làm toán. Các nhà toán học n−ớc ta tại Đại hội Toán học ở Bắc Kinh 9 Anh Tiến trong ký ức tôi Nguyễn Hữu Việt H−ng (ĐHKHTN - ĐHQG Hà Nội) Bấy giờ vào khoảng tháng t− 1976. Hà Nội đã hết những cơn m−a phùn, nh−ng mùa hè thì ch−a tới. Tôi vừa tốt nghiệp đại học đ−ợc vài tháng, đang nằm chờ phân công công tác. Các bạn trẻ ngày nay thật khó t−ởng t−ợng cái việc “nằm chờ phân công công tác” là nghĩa thế nào. Nói gọn lại, tôi đang giống nh− cá nằm trên thớt. Có tin một nhà toán học Pháp tới thăm Hà Nội. Lúc ấy năm thì m−ời hoạ, chừng sáu tháng hay một năm, mới có một nhà toán học n−ớc ngoài tới Hà Nội. Mỗi dịp nh− thế ng−ời ta kéo nhau đi nghe đông lắm, chẳng phân biệt ngành nghề gì cả, miễn cứ là dân Toán. Cho nên những buổi nghe giảng (đúng hơn là nghe nói chuyện) nh− thế th−ờng rất đông, nh− đi chẩy hội. Có lẽ các nhà toán học n−ớc ngoài phải ngạc nhiên lắm, vì họ cứ t−ởng rằng cử tọa gồm toàn những ng−ời cùng chuyên môn hẹp với mình. (Lấy đâu ra lắm ng−ời làm toán đến nh− thế, hở Giời.) Đang bồn chồn chờ công tác, lại chẳng có việc gì làm, nên tôi và anh bạn cùng lớp là Đặng Hùng Thắng rủ nhau đi nghe cho vui. Nơi nói chuyện là Hội tr−ờng UB KHKT Nhà n−ớc 51 Trần H−ng Đạo. Chuyên ngành hẹp của nhà toán học Pháp ấy là Hình học của không gian Banach. Ng−ời nghe đa số không nghe đ−ợc tiếng Pháp, nên phải có phiên dịch. Nh− ở phần lớn các buổi nghe giảng nh− thế, tôi nghe mà chẳng hiểu gì cả. Hiểu làm sao đ−ợc khi mới chỉ có một dúm kiến thức đại học ở trong đầu. Nh−ng không sao, chủ yếu là lấy cái không khí toán học. Nói theo kiểu Descartes: “Tôi nghe giảng, vậy thì tôi tồn tại”. Cuối bài giảng là phần thảo luận. Tôi nghĩ phần này rồi cũng trôi đi tẻ nhạt nh− những lần khác. Nh−ng ở hàng ghế cuối bỗng có một thanh niên mặc quần áo trắng đứng dậy đặt mấy câu hỏi. Chàng trai này trẻ trung, đỏ đắn, rõ ra một ng−ời vừa mới từ n−ớc ngoài về. Các bạn trẻ bây giờ chắc sẽ buồn c−ời khi nghe nói nh− thế. Nh−ng quả thật, lúc ấy những ng−ời mới từ “Tây” về th−ờng khoẻ mạnh, và do đó trông trẻ đi đôi khi tới bảy tám tuổi so với những ng−ời ở trong n−ớc, phần lớn xanh gầy vì thiếu ăn. Chàng trai mặc quần áo trắng đề nghị diễn giả đối chiếu kết quả của ông với kết quả của ông A, ông B; rồi đề nghị diễn giả suy nghĩ khả năng áp dụng kết quả vừa báo cáo vào bài toán X, bài toán Y. Tóm lại, sau vài câu hỏi, chàng trai này tỏ ra có một hiểu biết thấu đáo về lĩnh vực đang đ−ợc thảo luận. Những câu hỏi của anh ta có thần sắc, khác hẳn những câu hỏi xã giao vẫn th−ờng thấy lúc bấy giờ. Vài ng−ời ngoại lai hỏi nhau: Ai thế nhỉ? Từ hàng ghế bên cạnh, một ng−ời tỏ ra hiểu biết: “Anh ta tên là Tiến, mới học ở Liên Xô về”. Tôi và Đặng Hùng Thắng nhìn nhau, cái nhìn nặng trĩu −u t−. Và mặc dù không ai nói ra nh−ng d−ờng nh− mỗi chúng tôi đều 10 hiểu bạn mình muốn nói gì. Than ôi, chúng tôi cũng vừa học xong, và hai đứa chúng tôi đ−ợc coi là những sinh viên giỏi của ĐHTH Hà Nội. Vậy mà chúng tôi nghe chàng trai kia nói thật đúng là nh− vịt nghe sấm. Thế thì chúng tôi có nên theo học Toán nữa hay không? Đối với chúng tôi, buổi nghe nhà toán học Pháp nói chuyện kết thúc trong không khí nặng nề nh− thế. Vài hôm sau, tôi vào tr−ờng để hỏi tin về việc phân công công tác ở Phòng Tổ chức. Vẫn chẳng có gì mới cả. Chán nản, tôi tạt vào thăm thầy Hoàng Hữu Đ−ờng. Lúc ấy gia đình thầy Đ−ờng ở gian nhà lá, trên cái nền mà ngày nay là ngôi nhà của chị Phạm Thị Oanh (Khoa Toán). Thầy Đ−ờng không có nhà. Tiếp tôi là cô Nga, vợ thầy, và cũng là cô giáo dạy tiếng Nga của tôi. Chúng tôi đang nói chuyện thì chàng thanh niên mặc quần áo trắng hôm nọ xuất hiện. Thú thật, lúc ấy tôi rất ngại gặp chàng trai này, đơn giản chỉ vì tôi không muốn công khai thừa nhận sự dốt nát của mình. Dựng xe đạp ngoài cửa, chàng trai ào vào nhà nh− một cơn lốc: “Chào chị, anh vẫn không có nhà à? Em nhờ bà chị nói với ông anh rằng em đã vào thăm ông anh 3 lần mà không gặp. Nếu ông anh còn nhớ đến thằng Nguyễn Duy Tiến này thì mời ông anh tạt qua nhà nó ở 34 Điện Biên Phủ.“ (Các bạn trẻ bây giờ chắc sẽ hỏi: Sao không điện thoại tr−ớc? Các bạn nên biết rằng cho tới đầu những năm 1990, không một ng−ời dân th−ờng nào ở n−ớc ta có điện thoại riêng tại nhà.) Tôi bỗng chợt hiểu ra tất cả. Té ra ng−ời này là Nguyễn Duy Tiến. Tôi đã học xác suất theo cuốn Bài giảng lý thuyết Xác suất của Hoàng Hữu Nh− và Nguyễn Duy Tiến. Thì ra cái câu “Anh này mới học ở Liên Xô về” mà tôi nghe đ−ợc bữa tr−ớc phải hiểu là anh này mới tốt nghiệp PTS ở Liên Xô. Bỗng d−ng, tôi thấy d−ờng nh− là dễ thở hơn. ừ, mình hoàn toàn không hiểu những điều ng−ời này nói thì cũng chẳng có gì lạ. Bỗng ng−ời ấy quay sang phía tôi: “Chú em, chú học A0 à?. (A0 là tên gọi của khối Phổ thông chuyên Toán ở tr−ờng ĐHTH Hà Nội.) Tôi không nghĩ rằng cái mặt tôi lúc bấy giờ lại non choẹt tới mức ấy. Thế là tôi cứ đứng đực ng−ời ra, không nói đ−ợc câu nào, phải nhờ cô Nga đỡ lời cho. Tôi đã quen anh Tiến nh− thế đấy. Những năm 70 gia đình anh Tiến có 4 ng−ời, mà nhà ở chỉ rộng có chừng 9,5 mét vuông. Anh chị Tiến làm thêm bằng nghề cuốn thuốc lá, rồi đem bỏ mối ở các hàng n−ớc. Thỉnh thoảng anh Tiến lại khoe với chúng tôi về một kỹ thuật sao tẩm thuốc mới. Rồi d−ờng nh− để chứng minh cho thành công mới của mình, anh mời chúng tôi mấy điếu. Thuốc lá cuốn Lạng Sơn quả thật rất thơm. Hồi ấy, anh Tiến th−ờng làm việc trong một cái kho nhỏ, rộng chừng 1 mét vuông, vốn là nơi chứa củi, nằm ngay cạnh nhà xí. Đấy là một cái nhà xí kiểu cổ, dùng chung cho nhiều gia đình, nên dù quét dọn thế nào cũng rất hôi. Các bạn trẻ đừng t−ởng là nó giống với cái toilet ngày nay. Một lần tôi tới chơi, thấy anh Tiến đang xoay trần ra ở cái nhà kho ấy, vừa viết vừa đập muỗi. ở nơi ẩm thấp thế này, muỗi nhiều vô kể. Dạo ấy anh Tiến
File đính kèm:
tap_chi_thong_tin_toan_hoc_tap_6_so_3_thang_10_nam_2002.pdf