Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học môn hóa học lớp 9
Từnăm học 2002 - 2003, BộGiáo Dục Và Đào Tạo tiến hành ñổi mới
chương trình giảng dạy, ñổi mới sách giáo khoa ñể ñáp ứng nhu cầu giáo dục
phổ thông và sự phát triển của xã hội trong giai ñoạn mới. Sự ñổi mới
chương trình, sách giáo khoa lần này ñặt trọng tâm vào việc ñổi mới phương
pháp dạy học. Chỉ có ñổi mới căn bản phương pháp dạy và học chúng ta
chúng ta mới có thểtạo ñược sự ñổi mới thực sựtrong giáo dục, mới có thể
ñào tạo lớp người năng ñộng, sáng tạo, có tiềm năng cạnh tranh trí tuệtrong
bối cảnh nhiều nước trên thếgiới ñang hướng tới nền kinh tếtri thức. Vấn ñề
cốt lõi của ñổi mới dạy và học là hướng tới hoạt ñộng học tập chủ ñộng,
chống lại thói quen học tập thụ ñộng ñểhình thành năng lực nhận thức, năng
lực hành ñộng, năng lực thích ứng cho học sinh; hình thành những kỉnăng
cần thiết nhưkỉnăng vận dụng kiến thức, kỉnăng nghiên cứu khoa học
Định hướng ñổi mới phương pháp dạy học hiện nay là tích cực hóa
họat ñộng học tập của học sinh. Đó là quá trình làm cho người học trởthành
chủthểtích cực trong hoạt ñộng học tập của chính họ. Phương pháp dạy học
tích cực có mầm móng từxa xưa. Ngày nay, do những yêu cầu ñổi mới giáo
dục, ñáp ứng sựphát triển kinh tế- xã hội của ñất nước trong giai ñọan công
nghiệp hóa, hiện ñại hóa, phương pháp dạy học tích cực càng ñược quan tâm
thực hiện và trởthành phổbiến trong nhà trường của chúng ta. Đểphát huy
tính tích cực của học sinh cần tạo ñiều kiện ñểhọc sinh ñược suy nghĩnhiều
hơn, làm nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn, ñược phát biểu quan niện của
mình, ñược ñưa ra những nhận xét vềvấn ñề ñang bàn luận, ñược tham
gia vào quá trình học tập ñểchiếm lĩnh tri thức.
Từtrước ñến nay, ña sốhọc sinh cho rằng Hóa học là môn học rất khó
và khô khan. Nhiều học sinh ñã phải rất vất vả ñểghi nhớkiến thức nhưng
kết quảmang lại chưa cao. Thực tếcho thấy một sốhọc sinh học rất chăm
chỉnhưng vẫn học kém, các em này thường học bài nào biết bài ñấy, học
phần sau ñã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau,
không biết vận dụng kiến thức ñã học trước ñó vào những phần sau. Phần
lớn sốhọc sinh này khi ñọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách
tựghi chép ñểlưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớcủa mình.
Nguyên nhân ñó chính là do các em chưa tìm ra phương pháp học tập phù
hợp, chưa có phương pháp ghi nhớkiến thức một hiệu quả. Từ ñó dễgây
tâm lý chán nản, buông xuôi dẫn ñến lổhỏng kiến thức ngày càng rộng hơn
và ñến một lúc nào ñó không thểlắp ñược.
u. Sau đây là một số ví dụ minh họa một số câu hỏi trong phần tự luận đề kiểm tra 15 phút yêu cầu học sinh lập sơ đồ tư duy: Bài vẽ của học sinh SKKN: Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học môn Hóa học lớp 9 Năm học: 2013 - 2014 Người viết: Trương Thế Thảo trang Trường THCS Nhơn Hậu - An Nhơn 14 * Ví dụ 1: Hãy vẽ sơ đồ tư duy trình bày tính chất hóa học của axit sunfuric? Bài vẽ của học sinh Bài vẽ của học sinh SKKN: Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học môn Hóa học lớp 9 Năm học: 2013 - 2014 Người viết: Trương Thế Thảo trang Trường THCS Nhơn Hậu - An Nhơn 15 * Ví dụ 2: Hãy vẽ sơ đồ tư duy trình bày những gì em biết về Hidrocacbon? b.2. Sử dụng bản đồ tư duy trong việc giảng bài mới: Việc thực hiện dạy học bằng cách lập bản đồ tư duy được tóm tắt qua 4 bước như sau: - Bước 1: Học sinh lập bản đồ tư duy theo nhóm hay cá nhân với gợi ý, hướng dẫn của giáo viên. - Bước 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh về bản đồ tư duy mà nhóm mình đã thiết lập. - Bước 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện bản đồ tư duy về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh bản đồ tư duy, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học. - Bước 4: Củng cố kiến thức bằng một bản đồ tư duy mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặc một bản đồ tư duy mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó. Trong cách dạy học này giáo viên sẽ sử dụng bản đồ tư duy cho cách trình bày mới. Giáo viên thay vì gạch đầu dòng các ý cần trình bày lên bảng thì sử dụng bản đồ tư duy để thể hiện được một phần hoặc tòan bộ nội dung bài học một cách rất trực quan. SKKN: Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học môn Hóa học lớp 9 Năm học: 2013 - 2014 Người viết: Trương Thế Thảo trang Trường THCS Nhơn Hậu - An Nhơn 16 Ví dụ 1: Khi dạy bài “ Nhiên liệu”, GV có thể trình bày nội dung bài dạy theo dạng sơ đồ sau: Ví dụ 2: Khi dạy bài “ Sự ăn mòn kim loại và bảo vệ kim loại không bị ăn mòn”, GV có thể trình bày nội dung bài dạy theo dạng sơ đồ sau: SKKN: Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học môn Hóa học lớp 9 Năm học: 2013 - 2014 Người viết: Trương Thế Thảo trang Trường THCS Nhơn Hậu - An Nhơn 17 b.3. Sử dụng bản đồ tư duy trong việc củng cố kiến thức bài học: Để củng cố, khắc sâu kiến thức của bài học, nhiều giáo viên đã chọn giải pháp là ra một vài bài tập trắc nghiệm hoặc cho học sinh đọc phần ghi nhớ ở sách giáo khoa hay cho học sinh gấp vở lại rồi yêu cầu các em nhớ về kiến thức của bài học đó. Mỗi cách làm ở trên đều có những hạn chế nhất định như: + Một vài bài tập không kiểm tra được mức độ tiếp thu của học sinh qua toàn bài học. Đặc biệt là không giúp học sinh khái quát được toàn bộ nội dung bài học. + Cho học sinh đọc phần ghi nhớ ở sách giáo khoa sẽ làm cho học sinh học vẹt, đọc cho xong theo yêu cầu của thầy cô mà không nhớ được kiến thức, nhất là cuối tiết học độ tập trung của các em rất thấp. + Cho học sinh gấp vở lại rồi yêu cầu các em nhớ về kiến thức của bài học đó sẽ làm cho các em học thuộc lòng, học vẹt. Các em có thể cố gắng nhớ ngay lúc đó nhưng sau đó cũng nhanh chóng bị quên. Nếu chúng ta hướng dẫn cho các em sử dụng bản đồ tư duy để tự tóm tắt nội dung bài học sẽ giúp các em động não, sáng tạo hơn nhiều. Thực hiện điều này sẽ giúp cho học sinh có thể khái quát hóa kiến thức tốt hơn, liên hệ các kiến thức đó với nhau một cách logic. Đầu tiên là giáo viên tự vẽ cho các em thấy, sau đó là yêu cầu các em vẽ dưới sự gợi ý, hướng dẫn của giáo viên và sau cùng các em sẽ tự vẽ theo ý tưởng, sự hiểu biết của mình. Ví dụ 1: Sau khi học xong bài: “ Oxit” (bài mới đầu tiên của chương trình Hóa học 9), giáo viên có thể vẽ bản đồ tư duy để củng cố kiến thức cho học sinh bằng các câu hỏi gợi ý như sau: + Nội dung của bài học gồm có mấy phần? Học sinh sẽ trả lời được: 2 phần (tính chất hóa học của oxit và phân loại oxit). Từ đó giáo viên sẽ vẽ 2 nhánh cấp 1 là tính chất hóa học và phân loại từ chủ đề chính là “OXIT” + Giáo viên tiếp tục đặt câu hỏi: Dựa vào tính chất hóa học, người ta chia Oxit thành những loại nào? Học sinh sẽ trả lời được: 4 loại (oxit axit, oxit bazơ, oxit lưỡng tính và oxit trung tính). Từ đó giáo viên sẽ vẽ 4 nhánh cấp 2 là oxit axit, oxit bazơ, oxit lưỡng tính và oxit trung tính từ nhánh cấp 1 “phân loại oxit” + Giáo viên tiếp tục đặt câu hỏi: Oxit axit có những tính chất hóa học giống với oxit bazơ không? Từ đó vẽ 2 nhánh cấp 2 là Oxit axit và oxit ba zơ từ nhánh cấp 1 “Tính chất hóa học” + Giáo viên tiếp tục đặt câu hỏi: Oxit axit có những tính chất hóa học nào? Học sinh sẽ trả lời được: 3 tính chất (tác dụng với nước tạo thành dung dịch axit, tác dụng với dung dịch bazơ tạo thành muối và nước, tác dụng với một số oxit bazơ tạo thành muối). Từ đó giáo viên sẽ vẽ 3 nhánh SKKN: Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học môn Hóa học lớp 9 Năm học: 2013 - 2014 Người viết: Trương Thế Thảo trang Trường THCS Nhơn Hậu - An Nhơn 18 cấp 3 là tác dụng với nước, tác dụng với dung dịch bazơ, tác dụng với oxit bazơ từ nhánh cấp 2 “oxit axit”. Sau đó vẽ thêm nhánh cấp 4 là sản phẩm của mỗi phản ứng. Tương tự như thế cho tính chất hóa học của oxit bazơ ta sẽ có bản đồ tư duy hoàn chỉnh để củng cố bài học như sau: Ví dụ 2: Sau khi học sinh học xong bài “tính chất hóa học của axit”, giáo viên có thể gợi ý để học sinh vẽ sơ đồ tư duy cho nội dung bài học như sau: + Axit có những tính chất hóa học nào? Cho HS vẽ 5 nhánh cấp 1 từ chủ đề chính “Tính chất hóa học của Axit” + Sản phẩm của mỗi phản ứng là gì? Cho học sinh vẽ các nhánh cấp 2 từ các nhánh cấp 1 Cuối cùng ta sẽ có bản đồ tư duy do học sinh vẽ theo gợi ý của giáo viên như sau: SKKN: Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học môn Hóa học lớp 9 Năm học: 2013 - 2014 Người viết: Trương Thế Thảo trang Trường THCS Nhơn Hậu - An Nhơn 19 Ví dụ 3: Sau khi học xong bài tính chất hóa học của bazơ, giáo viên nêu yêu cầu: Em hãy trình bày tính chất hóa học của bazơ bằng bản đồ tư duy? Học sinh tự vẽ bản đồ theo sự hiểu biết của mình: Bài vẽ của học sinh SKKN: Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học môn Hóa học lớp 9 Năm học: 2013 - 2014 Người viết: Trương Thế Thảo trang Trường THCS Nhơn Hậu - An Nhơn 20 b.4. Sử dụng bản đồ tư duy trong bài thực hành: Trong giờ thực hành, học sinh thường được kiểm chứng lí thuyết đã học trên lớp và được trực tiếp làm một số thí nghiệm, quan sát hiện tượng hoá học xảy ra theo nhóm, do đó các em cần phải nắm vững các bước tiến hành để có thể thực hiện thành công các thí nghiệm. Các bước tiến hành phải đơn giản, ngắn gọn cho học sinh dễ hiểu và có thể thực hiện theo được. Trước giờ thực hành, giáo viên yêu cầu học sinh nghiên cứu nội dung thực hành, sau đó cho các nhóm học sinh vẽ ra bản đồ tư duy thể hiện các bước tiến hành cho từng thí nghiệm và báo cáo trước lớp. Cả lớp chỉnh sửa, bổ sung cho hoàn chỉnh dưới sự hướng dẫn của giáo viên sau đó các nhóm mới tiến hành thí nghiệm theo sơ đồ đã vạch ra. Ví dụ 1: Bản đồ tư duy thí nghiệm 3 – Nhận biết 3 dung dịch HCl, H2SO4 loãng, Na2SO4 trong bài thực hành “ Tính chất hóa học của oxit và axit” Bài vẽ của học sinh SKKN: Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học môn Hóa học lớp 9 Năm học: 2013 - 2014 Người viết: Trương Thế Thảo trang Trường THCS Nhơn Hậu - An Nhơn 21 Hoặc: Ví dụ 2: Bản đồ tư duy thí nghiệm 3 – Nhận biết 3 chất rắn ở dạng bột là NaCl, Na2CO3, CaCO3 trong bài thực hành “ Tính chất hóa học của phi kim và hợp chất của chúng” Ví dụ 3: Bản đồ tư duy thí nghiệm 3 – phân biệt 3 dung dịch glucozơ, saccarozơ, hồ tinh bột trong bài thực hành “ Tính chất của gluxit” SKKN: Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học môn Hóa học lớp 9 Năm học: 2013 - 2014 Người viết: Trương Thế Thảo trang Trường THCS Nhơn Hậu - An Nhơn 22 Một cách khác để sử dụng bản đồ tư duy trong bài thực hành là: Học sinh chuẩn bị ở nhà nội dung bài thí nghiệm vào bản đồ tư duy, có thể làm trên giấy A4 hoặc chuẩn bị sẵn trên máy tính đã cài phần mềm vẽ bản đồ tư duy. Khi thực hiện bài học thực hành thí nghiệm, học sinh thảo luận nhóm và trình bày kết quả trên máy tính, sau đó chấm điểm giữa các nhóm với nhau. Sau khi hoàn thành các thí nghiệm, các nhóm làm tường trình về từng mục như: cách sử dụng dụng cụ, cách tiến hành thí nghiệm, viết phương trình phản ứng, giải thích bản đồ tư duy của nhóm mình và dùng bản đồ tư duy đó làm bản tường trình cho cả nhóm. b.5. Sử dụng bản đồ tư duy để ra bài tập về nhà, chuẩn bị bài mới: Bài tập làm ở nhà sẽ có nhiều thời gian và điều kiện để tìm kiếm tài liệu nên bài tập về nhà mà giáo viên giao cho học sinh (hoặc nhóm học sinh) trước hết phải gắn bó với nội dung bài học và trong điều kiện cho phép (trình độ học sinh, thời gian, kinh tế…). Yêu cầu đối với bài về nhà cũng cần khó hơn, phức tạp hơn và cần sự đầu tư lớn hơn (cả kênh chữ, kênh hình, màu sắc, lượng thông tin…), qua đó còn thể hiện cả tính sáng tạo và sự tích cực tìm kiếm tài liệu học tập của học sinh. Ví dụ 1: Sau khi học các Hiđrocacbon: Metan, Etilen, Axetilen, Benzen, giáo viên yêu cầu học sinh về nhà vẽ bản đồ tư duy thể hiện các nội dung vừa học. SKKN: Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học môn Hóa học lớp 9 Năm học: 2013 - 2014 Người viết: Trương Thế Thảo trang Trường THCS Nhơn Hậu - An Nhơn 23 Ví dụ 2: Sau khi học xong các bài Glucozơ, Saccarozơ, Tinh bột và xenlulozơ giáo viên cho học sinh vẽ bản đồ tư duy về tính chất hóa học của các hợp chất Gluxit. Để chuẩn bị bài học mới, nhiều giáo viên yêu cầu học sinh: “về nhà đọc trước nội dung bài mới”. Thường học sinh không thực hiện bước này ở nhà hoặc thực hiện qua loa, đọc lướt qua 1 lần mà không cần biết bài đó viết về vấn đề gì? nội dung bao nhiêu phần? Để khắc phục tình trạng nói trên, chúng ta có thể yêu cầu học sinh vẽ sơ đồ tư duy của bài học mới vào vở bài tập. Điều đó sẽ giúp các em nắm được những nộ
File đính kèm:
- SKKN Su dung BDTD trong day hoc mon Hoa hoc 9.pdf