Một số biện pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa

Không biết mọi người có cảm giác thế nào khi được nghe, được xem những người nước ngoài nói, dặc biệt là hát tiếng Việt, riêng đối với tôi mỗi khi được thấy ai đó là người ngoại quốc nói "sõi"hoặc hát được những bài hát tiếng Việt, một cảm xúc thán phục xen lẫn xúc động và niềm tự hào về tiếng việt lại trào dâng trong lòng, trong thời kỳ đổi mới và hội nhập hiện nay, Việt Nam chúng ta đang mở rộng quan hệ ngoại giao với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nhiều người nước ngoài biết đến Việt Nam, biết nói, hát, giao tiếp bằng tiếng Việt cũng là điều bình thường nhưng sự thán phục của tôi đối với họ là bởi một lẽ đi sâu vào ngôn ngữ tiếng Việt của chúng ta thực sự có nhiều khía cạnh khó, đôi khi chính chúng ta cũng còn có sự nhầm lẫn. Một trong những nội dung khó của tiếng Việt là phần nghĩa của từ.

 Trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 5, mảng nội dung nghĩa của từ được tập trung và được biên soạn có hệ thống trong phần luyện từ và câu. Nhiều năm liền trong quá trình dạy học, tôi thường nhận thấy các em học sinh dễ dàng tìm được các từ trái nghĩa, việc tìm các từ cùng nghĩa, gần nghĩa cũng không mấy vất vả, tuy nhiên khi học xong từ nhiều nghĩa và từ đồng âm thì các em bắt đầu có sự nhầm lẫn và khả năng phân biệt các từ đồng âm với từ nhiều nghĩa của học sinh không được như mong đợi của cô giáo. kể cả một số học sinh khá, giỏi đôi khi cũng làm thiếu chính xác. Trăn trở về vấn đề này, qua những năm dạy lớp 5 tôi, đã rút ra một số kinh nghiệm nhỏ về cách dạy từ đồng âm , từ nhiều nghĩa , bài tập phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. Sau đây tôi xin được chia sẻ những kinh nghiệm nhỏ ấy qua bài viết:"Một số biện pháp dạy từ đồng âm , từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa".

 

doc20 trang | Chia sẻ: nguyenngoc | Lượt xem: 3704 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số biện pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ài tập cụ thể.
VD: Bài tập 2 – Tiếng việt 5- trang 67: yêu cầu học sinh tìm một số ví dụ về sự chuyển nghĩa của các từ: lưỡi, miệng, cổ, tay, lưng.
 Giáo viên gợi ý bằng cách đưa ra một số câu hỏi gợi ý có nội dung liên tưởng như: lưỡi của những đồ vật gì có tính sắc, sáng ( học sinh dễ tìm được lưới dao, lưỡi kiếm, lưỡi gươm, lưỡi lê, lưỡi lam , lưỡi hái…). Các từ còn lại giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm, trình bày bằng trò chơi ai nhanh hơn.
* Đối với các tiết dạy luyện tập về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, giáo viên chủ yếu thông qua việc tổ chức các hình thức dạy học để giúp học sinh cũng cố, nắm vững kiến thức, nhận diện, đặt câu, xác định đúng nghĩa…
2. Tìm các căn cứ để giúp học sinh nhận diện , phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
. Quay lại với bài kiểm tra ở phần thực trạng , tôi muốn đề cập đến một số lỗi HS mắc phải khi phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa . Đó là : 
+ Các em không xác định được nghĩa cuả từ trong từng câu.
+ Không tìm được mối quan hệ giữa từ mang nghĩa gốc với từ mang nghĩa chuyển.
+ Không dựa vào văn cảnh để hiểu nghĩa của từ trong mối quan hệ với các từ khác của câu.
+ Không thuộc định nghĩa ( tức phần ghi nhớ) của mỗi bài học.
Khi học sinh làm bài xong, tôi hỏi một học sinh có số điểm bài kiểm tra dưới 5 (em Kiên) về nghĩa của từ “vạt” trong câu :
“ Chú Tư lấy dao vật nhọn đầu chiếc gậy tre” nghĩa là gì?
Lúc đầu em im lặng, không trả lời, sau tôi động viên mãi, bảo em hiểu thế nào cứ nói cho cô nghe thì em trả lời “vạt” trong câu văn đó là một phần đầu nhọn của con dao.
Tôi không nói nhưng thầm nghĩ, em Kiên hiểu sai nghĩa của từ "vạt" và nội dung ý nghĩa thông báo của câu văn nên trong bài làm của mình em cho rằng từ “vạt” trong câu :
	“Những vạt nương màu mật
	Lúa chín ngập lòng thung”
và từ 'vạt' trong câu văn trên đều là những từ cùng nghĩa.
Tìm hiểu và nắm được một số sại lầm của học sinh như trên, tôi đã thử nghiệm một số biện pháp phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa như sau:
Yêu cầu học sinh thuộc ghi nhớ 
 Tâm lí học sinh thích làm những bài tập đơn giản, để lộ kiến thức, ngại học thuộc lòng, ngại viết các đoạn, bài cần yếu tố tư duy. Biết vậy, tôi thường cho học sinh ngắt ý của phần ghi nhớ cho đọc nối tiếp, rồi ghép lại cho đọc toàn phần, đọc theo nhóm đôi, có lúc thi đua xem ai nhanh nhất, ai đọc tốt. Cách làm này tôi đã cho các em thực hiện ở các tiết học trước đó (về từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa) do đó dạy đến từ đồng âm, từ nhiều nghĩa các em cứ sẵn cách tổ chức như trước mà thực hiện. Và kết quả có tới 25/28 học sinh thuộc ghi nhớ một cách trôi chảy tại lớp chỉ còn ba em có thuộc song còn ấp úng, ngắc ngứ.
Giúp học sinh học sinh hiểu đúng nghĩa của các từ phát âm giống nhau
Điều đặc biệt của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là phát âm giống nhau,( nói đọc giống nhau viết cũng giống nhau). Ta thấy rõ ràng là “đường”(1) trong “đường rất ngọt”, "đường"(2) trong "đường dây điện thoại" và “đường”(3) trong “ngoài đường xe cộ đi lại nhộn nhịp” đều phát âm, viết giống nhau. Vậy mà “đường” (1) với “đường” (2) và “đường” (1 ) với "đưòng' (3) lại có quan hệ đồng âm , còn " đường" (2) với "đường" (3 ) lại có quan hệ nhiều nghĩa .
Để có được kết luận trên đây, trước hết học sinh phải hiểu rõ nghĩa của các từ đường (1), đường(2), đường (3) là gì?
Đường (1) : ( đường rất ngọt): chỉ một chất có vị ngọt.
Đường (2) :( đường dây điện thoại )chỉ dây dẫn,truyền điện thoại phục vụ cho việc thông tin liên lạc.
Đường (3) :( ngoài đường, xe cộ đi lại nhộn nhịp) chỉ lối đi cho các phương tiện, người, động vật.
Để có thể giải nghĩa chính xác các từ "đường" như trên, các em phải có vốn từ phong phú. có vốn sống. vì vậy trong dạy học tất cả các môn, giáo viên luôn chú trọng trau 
dồi, tích lũy vốn từ cho học sinh, nhắc học sinh có ý thức tích lũy cho mình vốn sống và yêu cầu mỗi học sinh phải có được một cuốn từ điển tiếng Việt,biết cách tra từ điển tiếng Việt đồng thời nắm được một số biện pháp giải nghĩa từ.
 Tiếp đó học sinh căn cứ vào định nghĩa, khái niệm về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa để xác định mối quan hệ giữa các từ "đường".
Xét nghĩa của 3 từ "đường" trên ta thấy:
Từ (đường(1) và từ đường (2) có nghĩa hoàn toàn khác nhau không liên quan đến nhau- kết luận. hai từ đường này có quan hệ đồng âm. Tương tự như trên từ 'đường (2) và từ 'đường" (3) cũng có mối quan hệ đồng âm.
Từ đường (2) và từ đường (3) có mối quan hệ mật thiết về nghĩa trên cơ sở của từ đường (3)- chỉ lối đi, ta suy ra nghĩa của từ 'đường' (2) (truyền đi) theo vệt dài (dây dẫn). như vậy từ đường (3) là nghĩa gốc, còn từ đường (2) là nghĩa chuyển – kết luận: từ 'đường' (2) và từ 'đường' (3) có quan hệ nhiều nghĩa với nhau.
c)Dựa vào yếu tố từ loại cũng có thể giúp học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
 Biện pháp này thực ra ít khi tôi vận dụng bởi nếu học sinh đã hiểu đúng nghĩa của từ. thuộc được khi nhớ thì không cần thiết phải dùng đến cách dựa vào yếu tố từ loại, tuy nhiên đối với một số học sinh trung bình và yếu giáo viên có thể kết hợp cả 3 
 biên pháp.
 Nếu trong thực tế đời sống hàng ngày học sinh có thể bắt gặp hiện tượng một từ nào đó phát âm gần nhau nhưng xét về từ loại khác nhau thì kết luận đó là hiện tượng đồng âm. chẳng hạn khi chơi đùa học sinh hò reo đồng thanh để cổ vũ cho một học sinh được mệnh danh là “ cụ cố” vì em này nhỏ , yếu :
 "Cố lên cụ cố…ơi!"
“Cố” thứ nhất là tính từ, “cố” thứ 2 là danh từ.	đây là hiện tượng đồng âm dễ nhận diện.
Tùy trường hợp những từ phát âm giống nhau nhưng cùng từ loại (cùng loaị danh từ, động từ, tính từ) thì phải vận dụng biện pháp giải nghĩa từ trong văn cảnh đồng thời xét xem các từ đó có mối quan hệ về nghĩa hay không để tránh nhầm lẫn giữa từ đồng âm với từ nhiều nghĩa hoặc quan hệ đồng nghĩa nếu có . Trong trường hợp này thông thường ta dựa vào ngữ cảnh để nhận biết nghĩa của từ đồng âm, nói cách khác là dựa vào các từ cùng đi với nó trong câu .Ngữ cảnh có tác dụng hiện thực hóa nghĩa của từ và giúp con người sử dụng ngôn ngữ tránh sự nhầm lẫn.
VD: - đồng tiền – cánh đồng
 - Vạc dầu - con vạc
- Con cò – cò súng
- Xe đạp – con xe(quân cờ).
 Xét câu văn sau:"Hôm nay tôi đánh rơi mười nghìn đồng ngay đoạn cánh đồng làng.
Các từ trong câu có mối quan hệ vơí từ 'đồng' thứ nhất gồm” đánh rơi”, “ mười nghìn”, nếu chỉ dừng lại ở đánh rơi 10 nghìn đồng thì người đọc chưa rõ mười nghìn đồng tiền Việt Nam hay tiền nước nào và chưa xác định rõ giá trị số tiền đánh rơi . Có từ "đồng ngay sau cụm từ 'đánh rơi mười nghìn đồng' thì ta hiểu rõ số tiền đánh rơi ở đây là tiền Việt và xác định được giá trị của nó.Vậy từ 'đồng" thứ nhất là đơn vị tiền Việt nam, từ "đồng" thứ 2 nằm trong mối quan hệ với từ" qua', "cánh', 'làng'.Đồng trong “cánh đồng”là khoảng đất rộng bằng phẳng trồng lúa hoạc hoa màu.
 Hiện tượng đồng âm cùng từ loại như trên học sinh rất dễ nhầm lẫn với từ nhiều nghĩa hầu hết các từ nhiều nghĩa đều có cùng từ loại.Trong quá trình dạy học , tôi gặp phần lớn các từ nhiều nghĩa đều có cùng từ loại .Từ 'đi' trong các trường hợp sau đều là động từ :
 đi bộ
 VD: đi:	đi chơi
	đi ngủ
 đi máy bay
 Vì vậy khi gặp những từ có cùng vỏ âm thanh giống nhau thì học sinh không được vội vàng phán quyết ngay hiện tượng đồng âm hay nhiều nghĩa mà phải suy nghĩ thật kĩ. giải nghĩa chính xác các từ đó trong văn cảnh tìm ra điểm khác nhau hoàn toàn hay giữa chúng có sự liên hệ với nhau về nghĩa. Trong một số bài tập bồi dưỡng học sinh giỏi,có một số trường hợp giống nhau về âm thanh nhưng khó phân biệt hiện tượng đồng âm hay nhiều nghĩa.
VD: Các từ trong mỗi nhóm dưới đây có quan hệ như thế nào?
a) Đánh cờ, đánh giặc, đánh trống.
b) Trong veo, trong vắt, trong xanh,
c) Thi đậu , xôi đậu, chim đậu cành.
 (Đề thi HSG khối 5- trường TH Yên phú)
Xét về từ loại thì nhóm c các từ “đậu” có quan hệ đồng nghĩa với nhau vì đậu “trong thi đậu” là tính từ (đỗ,trúng tuyển) đậu” trong xôi đậu” là danh từ (gạo nếp trộn với đậu ngâm muối để ráo rồi đồ lên), 'đậu' (trong chim đậu trên cành) là động từ (nghĩ tạm dừng lại).
Ơ nhóm a, các từ 'đánh' đều là động từ nhưng xét về nghĩa các từ 'đánh cờ' (một trò chơi), 'đánh giặc' ( chiến đấu với kẻ thù bằng nhiều cách) và 'đánh trống' (dùng đùi hoăc tay đánh vào mặt trống cho phát ra âm thanh) thì nghĩa của chúng có liên qua đến nhau , đều tác động đến một sự vật khác , làm cho sự vật đó có sự thay đổi , vì vậy các từ “đánh” ở nhóm a có quan hệ nhiều nghĩa .
 Tuy nhiên các từ 'trong' ở nhóm b cũng là các từ có cùng từ loại ( tính từ ). Song chúng lại có quan hệ đồng nghĩa với nhau .
 Trong quá trình dạy bồi dưỡng học sinh giỏi để giúp học sinh làm tốt các bài tập như trên, giáo viên yêu cầu các em luôn nắm chắc nghĩa của từ và suy xét kĩ lưỡng nghĩa của các từ đó,không được bộp chộp ngộ nhận hoạc mới chỉ nhiều nghĩa mang máng 
mà đã vội kết luận mối quan hệ giữa các từ đã cho.
d)Dùng sơ đồ. 
 Đôi khi dạy xong tôi thầm nghĩ không biết cách làm của mình như thế này có “phi phương pháp” và trái với đặc trưng bộ môn hay không nhưng rõ ràng tôi thấy khi tôi dạy theo cách vẽ sơ đồ thì học sinh nhớ kiến thức về từ đồng âmvà từ nhiều nghĩa nhiều hơn, nhanh hơn đặc biệt là những học sinh trung bình và yếu.
 Thông thường khi dạy đến bài tập về từ đồng âm, tôi vừa hướng dẫn vừa giúp học sinh nhớ lại kiến thức bằng việc vẽ hai hình tròn ngang nhau nhưng rời nhau như
 sau:
 Khi ấy HS hiểu rằng mỗi hình tròn biểu thị cho nghĩa của một từ và các nghĩa ấy hoàn toàn khác nhau , không liên quan gì đến nhau , không có mối quan hệ gì . VD : 'Bức tranh' và 'tranh giành' .
 Còn khi hướng dẫn học sinh các bài tập về từ nhiều nghĩa tôi cũng vừa hướng dẫn vừa vẽ hai hình tròn nhưng hai hình tròn lại có chỗ giao thoa với nhau như sau:
 Khi ấy, học sinh học sinh hiểu rằng chỗ giao thoa giữa hai hình tròn là biểu thị mối quan hệ với nhau về nghĩa, phần không giao thoa giúp các em hiểu giữa các từ ấy có những điểm không hoàn toàn giống nhau về nghĩa.
VD: Mùa xuân(1) là tết trồng cây
 Làm cho đất nước càng ngày càng xuân(2).
"xuân' (1) chỉ mùa đầu tiên của một năm, từ tháng giêng đến thán

File đính kèm:

  • dockinh nghiem tieng viet 5.doc
Giáo án liên quan