Giáo án Ngữ văn 7 - Tiết 119, 120
I MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT:
- Tổng kết hoạt động, sưu tầm ca dao, tục ngữ.
- Rèn kĩ năng biên tập, phân tích, đánh giá tục ngữ, ca dao.
II TRỌNG TÂM KIẾN THỨC :
1. Kiến thức :
2.Kỹ năng :
B. CHUẨN BỊ ĐỒ DÙNG : Mẫu văn bản, bảng hệ thống tổng hợp
C. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP.
1. Ổn định tổ chức -> Bài học :
- Bước 1: Các tổ thu thập, phân loại kết quả của từng tổ viên trong tổ.
* Tục ngữ: Về kinh nghiệm tự nhiên, lao động sản xuất, con người và xã hội.
* Ca dao: Về tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước, ca dao than thân, châm biếm.
Núi đến ca dao là nói đến niềm tự hào của dân tộc mỡnh. Ca dao là văn chương dân gian dó dạng trải qua nhiều thế hệ lịch sử, đó được sinh ra trong những giai đoạn xó hội lỳc bấy giờ và lưu truyền cho đến ngày nay. Ít có người biết đến được chính xác các tác giả, dù vậy ca dao đó là vũ khớ chống lại những xăm nhập văn hóa trải qua sự đô hộ của nhiều thời đại. Ca dao Việt Nam là thành trỡ bảo tồn nền văn hóa dân tộc. Những cõu ca dao tục ngữ, lời hũ, hỏt dặm, bài vố thường đề cặp đến nhiều khía cạnh khác nhau như xả hội, gia đỡnh, tớnh ngưỡng, tỡnh yờu, thiờn nhiờn .v.v . . . Ca dao Việt Nam là một kho tàng vô giá, làm giàu thêm tiếng Mẹ Đẻ, chúng ta nên cố gắng và trang trọng gỡn giữ
Ngày soạn: 14/ 04/2010 Ngày giảng: Lớp 7AB: 19/ 04/ 2010 (Tiết 133) Lớp 7AB: 21/ 4/ 2010 (Tiết 134) Tiết 133+134 Chương trình địa phương (Phần văn và tập làm văn) văn+Tậplàm văn ) I mức độ cần đạt: - Tổng kết hoạt động, sưu tầm ca dao, tục ngữ. - Rèn kĩ năng biên tập, phân tích, đánh giá tục ngữ, ca dao. Ii trọng tâm kiến thức : 1. Kiến thức : 2.Kỹ năng : B. Chuẩn bị đồ dùng : Mẫu văn bản, bảng hệ thống tổng hợp… C. Tiến trình lên lớp. ổn định tổ chức -> Bài học : - Bước 1: Các tổ thu thập, phân loại kết quả của từng tổ viên trong tổ. * Tục ngữ: Về kinh nghiệm tự nhiên, lao động sản xuất, con người và xã hội. * Ca dao: Về tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước, ca dao than thân, châm biếm. Núi đến ca dao là núi đến niềm tự hào của dõn tộc mỡnh. Ca dao là văn chương dõn gian dó dạng trải qua nhiều thế hệ lịch sử, đó được sinh ra trong những giai đoạn xó hội lỳc bấy giờ và lưu truyền cho đến ngày nay. Ít cú người biết đến được chớnh xỏc cỏc tỏc giả, dự vậy ca dao đó là vũ khớ chống lại những xăm nhập văn húa trải qua sự đụ hộ của nhiều thời đại. Ca dao Việt Nam là thành trỡ bảo tồn nền văn húa dõn tộc. Những cõu ca dao tục ngữ, lời hũ, hỏt dặm, bài vố thường đề cặp đến nhiều khớa cạnh khỏc nhau như xả hội, gia đỡnh, tớnh ngưỡng, tỡnh yờu, thiờn nhiờn .v..v . . . Ca dao Việt Nam là một kho tàng vụ giỏ, làm giàu thờm tiếng Mẹ Đẻ, chỳng ta nờn cố gắng và trang trọng gỡn giữ Bắt đầu từ miền Bắc, tha thiết với mún thịt nấu đụng cho ba ngày Tết, cũng như những mún ăn mà ca dao diễn tả như sau: Ra đi anh nhớ quờ nhà Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương. Nhớ ai dói nắng, dầm sương. Nhớ ai tỏt nước bờn đường đờm nao! Và rồi mỗi vựng đều cú cỏc mún riờng cố hữu: Chàng đi nhớ chỏo làng Ghề. Nhớ cơm phố Mớa, nhớ chố Đụng Viờn. Dưa La, ca Lỏng, nem Bỏng, tương Bần. Cua Phụng Phỏp, rau muống Hiờn Ngang. Hỡi cụ thắt lưng bao xanh. Cú về An Phỳ với anh thỡ về An Phỳ cú ruộng tứ bề. Cú ao tắm mỏt, cú nghề mạch nha. Ca dao Việt Nam thường ghộp những mún ăn nổi tiếng với những người sành ăn, biết thưởng thức để khụng uổng cụng người đầu bếp cũng như đem tỡnh người thờm gần nhau: Bồng bồng mà nấu canh tụm. Ăn vào mỏt ruột, đờm hụm lại bồng. Sỏng ngày bồ dục chấm chanh. Trưa gỏi cỏ chấy, tối canh cỏ chầy. Nhất trong là giếng làng Hồi. Nhất bỏo, nhỡ bựi là cỏ rụ rõu. Canh cải mà nấu với gừng, Chẳng ăn thỡ chớ xin đừng chờ bai. Khế xanh nấu với ốc nhồi, Tuy nước nú xỏm nhưng mựi nú ngon. Canh bầu nấu với cỏ tre.õ Ăn vụ cho mỏt mà mờ vợ già. - Bước 2: - Phân công người phụ trách biên tập (Loại bỏ bớt những câu không đạt yêu cầu). - Sắp xếp theo vần, chữ cái thành bản tổng hợp tổ -> Chuẩn bị trưng bày. ( Hết tiết 133 -> Chuyển tiết 134 ) - Bước 3: - Trưng bày kết quả sưu tầm của các tổ – cử đại diện trình bày. -> BGK (giáo viên chủ nhiệm, cán sự bộ môn của lớp ) đánh giá, cho điểm. - Các đại diện giải thích địa danh, tên cây, quả, phong tục có trong các câu tục ngữ, ca dao sưu tầm được. - Bước 4: Bình giảng 1 số câu tục ngữ, ca dao hay. Như đó biết, nếu khụng cú cha mẹ sanh thành dưỡng dục, thỡ khụng cú chỳng ta ở trờn quả đất nầy. Quả thật vậy : Cụng Cha như nỳi Thỏi Sơn,Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra,Một lũng thờ Mẹ kớnh Cha,Cho trũn chữ Hiếu mới là đạo con... Ngoài ra, trong kinh Tõm Địa Quỏn, đức Phật cũng đó dạy về cụng ơn cha mẹ như sau : Ân cha lành cao như nỳi Thỏi,Đức mẹ hiền sõu tợ biển khơi,Dự cho dõng trọn một đời,Cũng khụng trả hết õn người sanh ta.Xuyờn qua những lời dạy ở trờn, tuy đơn sơ ngắn gọn, nhưng nú vụ cựng trõn quý, bởi bổn phận làm con phải biết hiếu kớnh với cha mẹ đó được thấm nhuần từ xa xưa của tổ tiờn ụng bà để lại cho ngày hụm nay. Hơn nữa, nếu xột về Dương Âm tức Trời Đất, thỡ người Cha tức Dương và người Mẹ tức Âm, chẳng khỏc nào ban ngày và ban đờm hay núi khỏc đi, nếu khụng cú Thiờn Địa tức Trời Đất, thỡ khụng thể tạo nờn chỳng sanh tức con người được, cho nờn nếu khụng cú "Cha sanh, Mẹ dưỡng" thỡ khụng thể cú chỳng ta. Bởi vỡ : Cú Cha, cú Mẹ thỡ hơn,Khụng Cha, khụng Mẹ như đờn đứt dõy. (*) (*) Ở đõy ngụ ý núi là khi chỳng ta sanh ra rồi, mà mất cha lẫn mẹ thỡ khốn khổ vụ cựng. Người cha tuy khụng mang nặng đẻ đau như người mẹ, kể từ cấn thai cho đến nở nhụy khai hoa (sanh nở), mẹ phải mang nặng cỏi bào thai suốt trờn chớn thỏng nặng nhọc, rồi bị hành thai, ăn uống vụ cựng khú khăn, làm cho sức khoẻ của mẹ càng ngày tiều tụy, để rồi đỳng ngày sanh nở phải đẻ đau. Nếu việc sanh đẻ suụng sẻ, bỡnh thường là tốt đẹp, thỡ xem như "Mẹ trũn Con vuụng" (thành ngữ). Nếu như sanh đẻ khú khăn, đụi khi cũng nguy hiểm đến tỏnh mạng của mẹ, thỡ khụng khỏc gỡ người mẹ đi biển một mỡnh, bởi đỳng với cõu : Đàn ụng đi biển cú đụiĐàn bà đi biển mồ cụi một mỡnh (tục ngữ). Sau khi sanh nở xong, mẹ cũng phải cận kề để lo cho con liờn tục trong ba năm nhũ bộ, rồi cựng cha lo từ tấm tó, từ manh quần tấm ỏo, từ giấc ngủ cho đến khi đau ốm. Trỏi lại, nếu khụng cú cha tạo thành cũng như lao tõm, lao lực, nhọc trớ lo lắng cho con từ tinh thần đến vật chất để cú sự sống và cũn tiếp tay với mẹ dạy dỗ con từ tấm bộ cho đến khi khụn lớn, thỡ khụng cú con ngày hụm nay. Cụng ơn của cha mẹ đối với cỏc con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn súc cho con từng giấc ngủ canh khuya, nhất là sự lo lắng lỳc mọc răng, ấm đầu phải chạy lo từng liều thuốc hay giọt sữa...Để rồi, khi con khụn lớn, việc lo toan đú lại càng chồng chất nhiều hơn nữa và mong sao con sau này sẽ nờn danh nờn phận, hữu dụng với họ hàng, làng nước. Ngoài ra, trong thời kỳ mẹ mang thai dạ chửa, cha lỳc nào cũng cận kề mẹ, để săn súc, giỳp đỡ mẹ từ miếng ăn, bởi vỡ mẹ hết thốm mún này đến mún nọ, nhất là những trỏi cõy cú vị chua hoặc vị ngọt hay một nồi chố thật ngon ngọt cũng nờn, thay vỡ ăn cơm bỡnh thường như mọi ngày. Khi con lọt lũng mẹ, cha cũng phải đỡ đần mẹ để pha từng bỡnh sữa, giặt giũ khi mẹ cũn non yếu sau khi sanh nở. Khi con được đầy thỏng, cha cũng đứng ra lo liệu lễ vật nhang đốn để cỳng đầy thỏng cho con, cha khấn vỏi cầu xin mụ bà và cỏc vị thần linh phự hộ cho con mau ăn chúng lớn, cú lẽ đú là lần đầu tiờn trọng đại trong đời khi cha mẹ cú đứa con đầu lũng. Khi con được hai ba thỏng, nằm ngữa hươ tay hươ chõn, mở mắt nhỡn ngơ ngỏc, xoay đầu sang phải, sang trỏi, rồi nở nụ cười vụ tư hồn nhiờn, nhưng làm cho cả nhà vui mừng, quả thật nụ cười của con làm cho những nụ cười rạng rỡ của cỏc khuụn mặt người thõn thương trong gia đỡnh và xúa mờ những nếp nhăn trờn trỏn của ụng bà, bởi vỡ con đó biết nở nụ cười đầu đời, để rồi thời gian cứ trụi qua, con lần lượt biết lật, biết bũ, biết ngồi, biết vịn tay cha mẹ đứng lờn được, rồi bước những bước rụt rố. Tiếng reo vui, tiếng khuyến khớch người thõn trong gia đỡnh vang lờn rộn ràng đầm ấm, trong đú cú lẫn tiếng của cha mẹ. Hơn nữa, cha cũng thường được phõn cụng đỳt cho con những miếng ăn đầu tiờn... ễi! làm sao kể cho hết những cụng lao của cha dành cho con. Mỗi gia đỡnh, mỗi cặp vợ chồng trẻ mới vừa được làm cha mẹ, sanh được đứa con đầu lũng, thỡ lỳc nào cha mẹ cũng dành hết tỡnh thương cho con, nhứt là cha sẵn sàng làm trũ hề để cho con vui hoặc làm thõn trõu ngựa để cho con cỡi, miễn sao con vui là được... Đú chớnh là tỡnh thương của cha dành cho con thật vụ bờ bến vậy. Khi con đến tuổi đi học vỡ lũng, cha mẹ lo lắng đưa đún cho con đến trường, thật đỳng với cõu : "Cha đưa, Mẹ đún" (thành ngữ). và hằng đờm cha lại dạy dỗ từng chữ để con học để nờn người sau này. Do vậy, cụng cha đối với con cũng vụ cựng to lớn như mẹ vậy, nào là lo ăn mặc, cho con ăn học, dạy dỗ cho con... bởi vỡ, chỉ cú cha con mới sợ đũn, mà chịu nghe lời dạy bảo hơn mẹ, bởi tục ngữ : Mẹ đỏnh một trăm (*) Khụng bằng cha hăm một tiếng (*) một trăm là để chỉ 100 roi. Cụng Cha như thế đú, cũn cụng Mẹ như thế nào?Như chỳng ta đều biết, sau khi con đó chào đời, mẹ lỳc nào cũng ở cận kề con hơn cha, để cho con bỳ với bầu sữa mẹ mỗi khi con khỏt sữa, (Con khụng khúc, mẹ khụng cho con bỳ), trong suốt ba năm nhũ bộ, mỗi lần con mọc răng, ngứa nướu con thường cắn vỳ mẹ, nhưng người mẹ vẫn cam chịu đau và lại mừng thầm nữa, bởi vỡ, biết con đó mọc răng sữa, cho nờn người mẹ mới mắng yờu rằng : "Con đó mọc răng, núi năng gỡ nữa" (tục ngữ). Khi con được vài thỏng, mẹ bắt đầu nấu chỏo hay nhai cơm cho nhuyễn với cỏ hay thịt, với nước miếng của mẹ làm cho dễ tiờu, rồi mớm cơm vào miệng cho con ăn. Đú là phương phỏp ngày xưa, phương phỏp này rất tiện và cú cả tỡnh thương của mẹ dành cho đứa con nữa, mặc dự thấy khụng hạp vệ sanh như ngày nay... Do những cụng lao của mẹ như trờn, đó được trong dõn gian truyền khẩu qua ca dao, tục ngữ như sau : Con mẹ cú thương mẹ thay,Chớn thỏng mười ngày mang nặng đẻ đau.Cha mẹ sanh thành tạo húa,Nhai cơm, lựa cỏ, nhai cỏ lựa xương.Cha mẹ nuụi con bằng trời bằng biển (ca dao) - Bước 5: Biểu dương tổ, cá nhân sưu tầm được nhiều và giải thích đúng, cá nhân có những đánh giá tốt, bình hay. * Hướng dẫn học và làm bài về nhà: + Chuẩn bị cho tốt tiết: Hoạt động ngữ Văn. + Tập đọc diễn cảm viết văn bản nghị luận.
File đính kèm:
- Ngư văn điaị phương 119, 120.doc