Đề tài Sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy môn hoá học và phương pháp tiến hành một số thí nghiệm ở trường trung học cơ sở (tiếp)
Sau nhiều năn trực tiếp giảng dạy và nghiên cứu, đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình chu đáo của ban giám hiệu nhà trường, của các thầy cô, đồng nghiệp và các em học sinh. Tôi đã hoàn thành đề tài sáng kiến kinh nghiệm "Sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy môn hoá học và phương pháp tiến hành một số thí nghiệm ở trường trung học cơ sở ".
Đề tài gồm năm phần:
Phần A: Mở đầu. Nêu lên lý do chọn đề tài, một số cơ sở lý luận và thực tế trước khi thực hiện đề tài.
hí nghiệm và các ví dụ cụ thể: Có hai loại thí nghiệm ở trường THCS Thí nghiệm biểu diễn của giáo viên Thí nghiệm của học sinh - Tùy theo mục đích sử dụng thí nghiệm trong quá trình học tập (để nghiên cứu bài mới hay để củng cố, kiểm tra kiến thức, kỹ năng kỹ xảo) mà thí nghiệm của học sinh được chia thành các dạng khác nhau + Thí nghiệm nghiên cứu bài mới + Thí nghiệm luyện tập + Thí nghiệm thực hành - Ngoài các hình thức trên được dùng trong nội khóa còn những thí nghiệm ngoại khóa được thực hiện ở trường, quan sát ở nhà. 1.Thí nghiệm biểu diễn của giáo viên : -Thí nghiệm biểu diễn dùng làm cơ sở để cụ thể hóa những khái niệm về chất và phản ứng hóa học. Trong quá trình biểu diễn thí nghiệm, giáo viên là người thực hiện sự biến đổi các chất, điều khiển các quá trình biểu diễn thí nghiệm, học sinh theo dõi quan sát và có nhận xét về quá trình đó. Vai trò của các thí nghiệm trong giờ Hóa học có thể không giống nhau. Chúng có thể dùng để minh họa các kiến thức do giáo viên trình bày, có thể là nguồn những kiến thức mà học sinh tiếp thu dưới sự hướng dẫn của giáo viên trong quá trình quan sát thí nghiệm. Vì vậy các thí nghiệm biểu diễn có thể được tiến hành bằng 2 phương pháp : Phương pháp minh họa Phương pháp nghiên cứu -Phương pháp thứ 2 có giá trị lớn hơn vì nó có tác dụng kích thích học sinh làm việc tích cực hơn và đặc biệt tạo điều kiện phát triển khả năng nhận thức của học sinh. Khi tiến hành thí nghiệm biểu diễn cần chú ý những yêu cầu sau đây : a. Đảm bảo an toàn thí nghiệm : An toàn thí nghiệm là yêu cầu trước hết đối với mọi loại thí nghiệm, trong đó có thí nghiệm biễu diễn của giáo viên. Để đảm bảo an toàn thí nghiệm và tính mạng của học sinh trong giờ học . Mặt khác giáo viên cần nắm vững kỹ thuật và phương pháp tiến hành các thí nghiệm cụ thể. Ví dụ : - Trong bất cứ trường hợp nào, trước khi đốt H2 đều phải thử độ tinh khiết của nó . Khi làm việc với chất độc hại phải có biện pháp bảo hiểm Không dùng quá liều lượng hóa chất dễ cháy và dễ nổ Các thí nghiệm tạo thành chất bay hơi cần tiến hành ở phía cuối chiều gió để tránh tạt khí độc về phía học sinh ........ b, Đảm bảo kết quả và tính khoa học của thí nghiệm : Thí nghiệm hóa học như “con dao hai lưỡi” : Kết quả tốt đẹp của các thí nghiệm có liên quan chặt chẽ đến chất lượng dạy học và củng cố lòng tin của học sinh vào khoa học. Muốn đảm bảo kết quả trước hết giáo viên phải nắm vững kĩ thuật và kĩ năng tiến hành thí nghiệm, giáo viên phải chuẩn bị cẩn thận các thí nghiệm, thử nhiều lần trước khi biểu diễn trên lớp. Các dụng cụ hóa chất cần chuẩn bị chu đáo và đồng bộ. Nếu chẳng may thí nghiệm không thành công, giáo viên cần bình tĩnh, tìm ra nguyên nhân để giải thích cho học sinh. c, Đảm bảo trực quan: - Trực quan là một trong những yêu cầu cơ bản của thí nghiệm biểu diễn. Để đảm bảo tính trực quan khi chuẩn bị thí nghiệm giáo viên cần suy nghĩ đến kích thước các dụng cụ thí nghiệm và sử dụng lượng hóa chất thích hợp. Các dụng cụ thí nghiệm cần có kích thước và màu sắc hài hòa. Bàn để biểu diễn thí nghiệm phải có độ cao cần thiết và các dụng cụ thí nghiệm cần phải bố trí sao cho mọi học sinh trong lớp đều nhìn rõ. Đối với các thí nghiệm có kèm theo sự đổi màu sắc, có các khí sinh ra hoặc có các chất kết tủa tạo thành thì phải dùng các phông có màu sắc thích hợp. - Số lượng thí nghiệm trong một bài nên chọn vừa phải. Cần chọn những thí nghiệm phục vụ trọng tâm bài học và phù hợp với thời gian của tiết dạy để đảm bảo việc thực hịên các bước lên lớp. Mặt khác nếu chúng ta sử dụng nhiều thí nghiệm với những phản ứng hóa học có bản chất giống nhau sẽ giảm hứng thú học tập của học sinh. - Ngoài những yêu cầu trên, để nâng cao chất lượng các thí nghiệm biểu diễn ta cần chú ý những nội dung sau đây: Trong thí nghiệm nên sử dụng những hóa chất học sinh đã quen biết. Đương nhiên nếu mục đích thí nghiệm là nghiên cứu chất mới thì chất đó phải là mới đối với học sinh. Nhưng khi sử dụng các chất để rút ra những kết luận lí thuyết nào đó, tức là dùng làm tài liệu giáo khoa thì cố gắng dùng các chất quen thuộc. - Để giúp học sinh tập trung tuyệt đối vào các phản ứng hóa học diễn ra trong các dụng cụ thí nghiệm, trước khi thực hiện thí nghiệm giáo viên nên giúp học sinh tìm hiểu về các dụng cụ thí nghiệm theo các trình tự sau: + Tên của dụng cụ. + Công dụng của dụng cụ + Hình dạng bên ngoài và cấu tạo bên trong + Công dụng của từng bộ phận + Bộ phận quan trọng nhất ( tuỳ theo từng nội dung thí nghiệm) + Dụng cụ được cấu tạo và hoạt động dựa trên những nguyên lý nào. + Cách sử dụng dụng cụ Trong một số trường hợp thì cần có thể dùng hình vẽ hoặc tháo rời từng bộ phận rồi giới thiệu và lắp dụng cụ theo 1 trình tự cần thiết. Nên lựa chọn các dụng cụ thí nghiệm đơn giản, gọn nhẹ đảm bảo tính khoa học, sư phạm, mỹ thuật. Chọn phương án thí nghiệm đơn giản, tiết kiệm , dễ thành công và đảm bảo an toàn cho học sinh. Trước khi tiến hành thí nghiệm, giáo viên cần phải giải thích mục đích, yêu cầu và cách tiến hành thí nghiệm. Trong thời gian tiến hành thí nghiệm sự chú ý của học sinh vào việc quan sát các hiện tượng sảy ra như đặt các câu hỏi để học sinh chú ý theo dõi thí nghiệm và trả lời. Điều này đặc biệt chú ý ở lớp 8 vì khả năng quan sát của học sinh còn phát triển lưu ý học sinh quan sát việc thực hiện đúng đắn các thao tác thí nghiệm như: cách lấy hoá chất rắn và lỏng, cách đun , cách sử dụng đèn cồn, đặc biệt cách lắp và kiểm tra dụng cụ, . 2. Thí nghiệm của học sinh. a) Thí nghiệm để nghiên cứu bài mới: Tuy có nhiều ưu điểm nhưng do khả năng nhận thức của học sinh có hạn ( chỉ bằng thị giác và thính giác) nên thí nghiệm biểu diễn còn có những mặt hạn chế. Dù sao khi học sinh được trao dụng cụ tận tay và được thực hiện làm thí nghiệm thì việc làm quen với các dụng cụ , các chất và quá trình sẽ đầy đủ hơn. ở đây học sinh tự tay điều khiển các quá trình và làm biến đổi các chất nên có sự phối hợp giữa hoạt động, trí óc với hoạt động chân tay trong quá trình nhận thức của học sinh. Phương pháp này có khả năng phát triển tốt nhất năng lực trí tuệ của học sinh , kích thích hứng thú của học sinh đối với hoá học, vì nó rèn luyện cho học sinh nhận thức và phân tích những dấu hiệu và hiện tượng cụ thể bằng kinh nghiệm riêng của chính mình , và thu hút của học sinh vào nhận thức đối tượng . Việc tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm để nghiên cứu bài mới có thể thực hiện bằng 2 cách: Toàn lớp cùng làm một thí nghiệm hoặc từng nhóm những thí nghiệm khác nhau. Khi tiến hành thí nghiệm học tập theo nhóm, giáo viên cần theo dõi để các học sinh trong nhóm lần lượt được học, nếu không thì thí nghiệm của học sinh sẽ biến thành thí nghiệm biểu diễn trong đó chỉ do một số em khá phụ trách. Nếu thí nghiệm phức tạp cần có sự phân công giữa các học sinh trong nhóm. Ví dụ: Trong thí nghiệm điều chế và thử tính chất của Oxi ở lớp 8 có thể 1 học sinh lắp dụng cụ điều chế và thu Oxi . Các học sinh khác làm các thí nghiệm đốt cháy C,S, kim loại trong Oxi . Cũng như thí nghiệm biểu diễn, thí nghiệm của học sinh có thể tiến hành theo phương pháp minh hoạ và nghiên cứu. Ví dụ: Để nghiên cứu tính khử của H2 ở lớp 8 có thể cho học sinh tiến hành thí nghiệm khử CuO nhờ H2 bằng 2 phương pháp trên như sau : + Phương pháp minh hoạ : Giáo viên cho biết Hiđo không những có thể hoá hợp với Oxi của các hợp chất như các oxít. Nếu cho H2 qua CuO nung nóng nó sẽ chiếm Oxi của hợp chất này và tạo ra nước , CuO màu đen tạo ra Cu đơn chất màu đỏ. Học sinh thành lập PTHH: H2+ CuO Cu + H2O Sau đó giáo viên cho học sinh tiến hành thí nghiệm vừa được mô tả. Sau khi làm thí nghiệm, học sinh lấy những điều giáo viên trình bày được khẳng định về mặt thực nghiệm. Phương pháp nghiên cứu : Giáo viên đặt vấn đề : H2 có thể chiếm oxi của các oxit không ? Giáo viên hướng dẫn HS lắp dụng cụ và sử dụng các hoá chất ( đã chuẩn bị sẵn ) . Trong quá trình GV hướng dẫn HS quan sát hiện tượng sảy ra , đặc biệt quan sát của CuO trước và sau khi dẫn H2 qua CuO đun nóng (màu đen thành đỏ) đồng thời xuất hiện những giọt lỏng trên thành ống nghiệm và đáy ống nghiệm . Từ đó rút ra kết luận H2 đã chiếm oxi của CuO tạo thành nước và giải phóng kim loại Cu (màu đỏ) Học sinh viết phương trình hoá học : H2 + CuO H2 O + Cu Phương pháp nghiên cứu kích thích hoạt động tích cực của học sinh trong giờ hoá học hơn và tạo điều kiện phát triển kỹ năng làm việc độc lập . b) Thí nghiệm thực hành : Hình thức thí nghiệm do học sinh tự làm khi hoàn thiện kiến thức nhằm minh hoạ , ôn tập , củng cố kiến thức đã học và rèn luyện kỹ năng , sử dụng dụng cụ và hoá chất . Rèn luyện kỹ năng và kỹ thuật tiến hành thí nghiệm hoá học . Một trong những điều kiện giúp học sinh thực hiện thành công các thí nghiệm thực hành là học sinh đã được chuẩn bị trước về mục đích của thí nghiệm , học sinh cần làm gì và làm như thế nào , giải thích các hiện tượng xảy ra trong thí nghiệm, rút ra những kết luận đúng đắn. dưới sự hướng dẫn của giáo viên HS cần ôn lại những nội dung cần thiết trong SGK và đọc trước bài thực hành GV cần xác định nội dung và phương pháp tiến hành sao cho phù hợp với đặc điểm về nội dung và cơ sở vật chất thiết bị liên quan , phổ biến cho học sinh những việc cần chuẩn bị , dự kiến những tình huống xảy ra cần giải thích về lý thuyết . Các thí nghiệm được lựa chọn phải đơn giản ở mức độ tối đa nhưng phải rõ , dụng cụ đơn giản giá thành hạ , nhưng vẫn đảm bảo các yêu cầu về khoa học và sư phạm . Một giờ thực hành thường được thực hiện theo trình tự sau đây : Đầu giờ giáo viên kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh , giải thích ngắn gọn cách tiến hành thí nghiệm , cách quan sát và ghi chép để làm tường trình thí nghiệm Lưu ý học sinh những qui tắc , thao tác . đặc biệt là đảm bảo an toàn trong thí nghiệm . Khi HS làm thí nghiệm , GV theo dõi và uốn nắn những sai sót khi cần thiết nhưng tránh không làm thay HS . Trong điều kiện hiện nay , do khả năng trang bị hoá chất còn hạn chế , nội dung giờ thực hành thường phải chia thành từng nhóm lớn nên cần có sự phân công việc làm
File đính kèm:
- skkn mot so phuong phap tien hanh thi nghiem o truong thcs cuc hay.doc