Đề tài Một số biện pháp quản lý nhằm phát triển đội ngũ giáo viên ở trường THPT Bình Sơn tỉnh Vĩnh Phúc
Cùng với giáo dục của cả nước, trường THPT Bình Sơn, tỉnh Vĩnh Phúc cũng đang nỗ lực thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình với chủ đề năm học mà Bộ GD&ĐT đưa ra “ Năm học đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục”; năm học tiếp tục thực hiện các cuộc vận động lớn: cuộc vận động “ Hai không”, cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, cuộc vận động “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương sáng về đạo đức, tự học và sáng tạo”. Nhưng hiện tại đội ngũ giáo viên của trường bên cạnh những ưu điểm đáng quí vần còn tồn tại những non yếu về chất lượng cần khắc phục kịp thời.
2 1 1 0 0 Toán 11 2 6 3 0 Lý 8 0 2 6 0 Hoá 3 1 1 1 0 Sinh 6 1 2 3 0 TD 3 1 1 1 0 Tin 2 1 1 0 0 Kỹ CN 2 0 1 1 0 Kỹ NN 2 0 1 1 0 - Tổ chức phong trào viết sáng kiến kinh nghiệm và làm đồ dùng dạy học. Năm học 2008 - 2009 có một số sáng kiến kinh nghiệm được Hội đồng khoa học nhà trường đánh giá cao. - Động viện, phát động phong trào tự học: Giáo viên có ý thức tự học, tự bồi dưõng qua dự giờ, sưu tầm và đọc thêm tài liệu. - Động viên, khuyến khích giáo viên đi học nâng cao trình độ. Trường có 6 thạc sỹ và 3 giáo viên đang theo học thạc sỹ. Không có giáo viên nào chưa đạt chuẩn. - Tổ chức một số hội thảo về chuyên đề dạy tốt, học tốt. - Làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục, xây dựng quỹ khuyến học, quỹ tài năng trẻ. Kết hợp với chính quyền đoàn thể địa phương giáo dục học sinh. Chất lượng giáo dục toàn diện ngày càng tăng với tỷ lệ học sinh lên lớp và đậu tốt nghiệp hàng năm đều đạt cao. Học sinh lớp 12 vào Đại học, Cao đẳng hệ A đạt 71¸14%. Dưới đây là bảng thống kê số học sinh đỗ đại học, cao đẳng các năm ( Nguồn nhà trường) Năm học Số lớp 12 Số học sinh Số HS thi đỗ vào ĐH Số HS thi đỗ vào CĐ Số HS thi đỗ vào THCN và DN Tổng số 2005 – 2006 9 459 2006 – 2007 9 464 68 50 118 2007 - 2008 11 532 260 60 320 2008 - 2009 11 484 264 33 297 Chất lượng mũi nhọn là học sinh giỏi cấp tỉnh hàng năm đều được nhà trường chú trọng đã không ngừng tăng lên về cả số lượng và chất lượng. Đây là bảng thống kê số học sinh giỏi của nhà trường ( Nguồn nhà trường). Năm học Số học sinh dự thi Số học sinh đạt giải Giải nhất Giải nhì Giải ba Giải KK 2005 – 2006 112 67 0 0 7 60 2006 – 2007 119 83 1 2 9 71 2007 – 2008 258 119 4 9 19 87 2008 - 2009 201 97 2 5 24 66 2.2. MỘT SỐ TỒN TẠI TRONG QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN GIÁO VIÊN Ở TRƯỜNG THPT BÌNH SƠN, TỈNH VĨNH PHÚC 2.2.1. Những tồn tại chung về chất lượng đội ngũ giáo viên THPT. Một bộ phận giáo viên trình độ chuyên môn yếu, phẩm chất nhân cách kém. Đa số giáo viên sử dụng phương pháp dạy học và giáo dục lạc hậu, nặng về truyền thụ kiến thức, ít coi trọng rèn luyện cho học sinh phương pháp tư duy độc lập sáng tạo và thái độ đúng đắn trong học tập, trong cuộc sống. 2.2.2. Những tồn tại riêng của trường THPT Bình Sơn. a. Về tư tưởng chính trị, đạo đức và lý tưởng nghề nghiệp: Đa số giáo viên có tư tưởng lập trường tư tưởng chính trị vững vàng , đạo đức trong sáng, yêu nghề. Nhưng chưa có sự nhạy bén, mẫn cảm và chưa có khả năng thích ứng về mặt xã hội trong công cuộc đổi mới của đất nước hiện nay. Bên cạnh đó có một vài thành viên chữa mẫu mực trong phẩm chất, đạo đức, như tư tưởng cá nhân vẫn còn lấn át tư tưởng tập thể, hay đòi hỏi quyền lợi, thường gắn nhiệm vụ với hưởng thụ, trả công. Đội ngũ quản lý chưa có biện pháp giáo dục đối với bộ phận này, nhiều lúc tỏ ra chưa kiên quyết trong phê bình, đấu tranh. b. Về lòng nhân ái sư phạm. Bên cạnh đại bộ phận giáo viên rất yêu thương học sinh, gần gũi thương yêu, hết lòng vì học sinh, thì có một số giáo viên chưa hết lòng với học sinh. Điều đó có thể nhận ra trong tinh thần trách nhiệm, của giáo viên đối với công việc của mình. Có nhiều lúc giáo viên chưa thật sự tôn trọng và yêu cầu cao, khoan dung, vị tha đối với học sinh mà còn tỏ ra thờ ơ, vô tình. Bộ phận quản lý chưa có biện pháp bồi dưỡng. c. Về năng lực chuyên môn và năng lực sư phạm. Đây là một tồn tại nhức nhối, là bài toán nan giải mà mấy năm vừa qua, nhà trường đã tập trung để giải quyết. Tuy có gặt hái được một số thành tựu nhưng rõ ràng nó chưa đáp ứng được yêu cầu của đất nước trong giai đoạn hiện tại và tương lai. c.1) Về năng lực chuyên môn. Cùng với sự phát triển về số lượng học sinh, đội ngũ giáo viên có sự phát triển nhanh về số lượng. Về trình độ đào tạo, 100% đạt chuẩn. Càng về sau số giáo viên (sinh viên mới ra trường) năng lực chuyên môn càng yếu. Nhưng điều đáng nói là tỉ lệ số giáo viên dạy giỏi tỉnh và xếp loại chuyên môn loại khá, giỏi tỉ lệ thấp (11/64). Trong số 11 giáo viên xếp loại giỏi chỉ có 2 giáo viên có thâm niên 2 năm công tác, còn lại là giáo viên công tác từ 5 năm trở lên. Tuy không có xếp loại yếu nhưng số giáo viên xếp loại trung bình khá cao (> 40%). Qua dự giờ thường kỳ, qua các đợt thao giảng, sinh hoạt chuyên môn trường nhận thấy: Rất nhiều giáo viên nhất là số giáo viên mới vào nghề chất lượng giảng dạy quá thấp, như: lúng túng về phương pháp giảng dạy và giáo dục, kỹ năng thiết kế giờ dạy yếu, thậm chí có giáo viên kiến thức chưa vững vàng. Về phương pháp giảng dạy còn nặng về truyền thụ, chưa đổi mới phương pháp nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh. Những tồn tại trên một phần cũng do đội ngũ quản lý chưa có biện pháp để tạo nên một môi trường, phương pháp để giáo viên nâng cao trình độ. c.2) Về năng lực sư phạm. Năng lực sư phạm là yếu tố quan trọng vì năng lực sư phạm quyết định sự thành bại của công tác giảng dạy và giáo dục của giáo viên. Vậy mà đa số giáo viên ở trường THPT Bình Sơn năng lực sư phạm còn ở mức độ thấp. Có nhiều giáo viên kiến thức khoa học tương đối vững nhưng thiếu năng lực sư phạm, như việc thiết kế giáo án môn học, tổ chức giờ học thiếu khoa học, nghệ thuật truyền thụ , khả năng giao tiếp với học sinh, ứng xử các tình huống trong giảng dạy và giáo dục còn hạn chế. Có nhiều giáo viên thiếu kinh nghiệm trong phương pháp giáo dục học sinh, chưa gắn việc giáo dục học sinh vào trong nội dung môn học, bài dạy. Thậm chí có giáo viên còn thờ ơ trong việc giáo dục đạo đức học sinh, xem đó là nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm, của BGH, của đoàn thanh niên. Trong công tác chủ nhiệm, có một số giáo viên chưa có năng lực tổ chức sinh hoạt tập thể, thuyết phục, cảm hóa học sinh, ứng xử các tình huống sư phạm. d) Năng lực làm công tác xã hội hoá giáo dục. Đa số giáo viên chưa nắm vững nội dung công tác này, họ chỉ thực hiện công tác này một cách thụ động. Họ xem đó là việc của Nhà nước, của các cấp lãnh đạo. Trong các buổi sinh hoạt lớp, họp phụ huynh, giáo viên diễn giải, thuyết trình vu vơ, hời hợt, chiếu lệ. Về phía quản lý, ban giám hiệu cũng chưa có kế hoạch, chỉ đạo sát sao, chưa triển khai cụ thể đầy đủ. e. Năng lực về tin học. Hầu hết giáo viên có hiểu biết gì về tin học, về máy tính, có thể thiết kế giảng dạy bằng giáo án điện tử. Nhưng đa sô giáo viên đều ngại thiết kế và giảng dạy bằng giáo án điện tử vì phải bỏ ra nhiều thời gian để soạn bài và việc bố trí phòng học còn gặp nhiều khó khăn. g) Năng lực ngoại ngữ. Ngoài giáo viên ngoại ngữ, số giáo viên còn lại tuy đã được học trong trường đại học nhưng khi ra trường đều không sử dụng do đó khả năng về ngoại ngữ rất kém. Đặc biệt số giáo viên công tác lâu năm không có hiểu biết về tiếng Anh. Nguyên nhân của hiện tượng này là do nội dung, qui trình đào tạo. Trong lúc đó nhà trường chưa có biện pháp, chủ trương học và nâng cao trình độ ngoại ngữ cho giáo viên. Bản thân giáo viên chưa có tinh thần và điều kiện tự học. h) Về học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ, tạo cơ hội phát triển Do điều kiện trường nằm ở vùng núi, cuối tỉnh, cuối huyện nên không thu hút được đội ngũ giáo viên, nhiều giáo viên được phân về trường đã không đến nhận công tác, hàng năm giáo viên xin chuyển trường rất nhiều dẫn đến tình trạng trường thiếu giáo viên trầm trọng kéo dài triền miên trong những năm vừa qua ( năm 2008-2009 thiếu 16 giáo viên ). Từ chỗ thiếu giáo viên như vậy nên giáo viên của trường phải giảng dạy nhiều, giáo viên phải dạy đến hơn 40 tiết/tuần không có thời gian để học tập bồi dưỡng, đặc biệt là cử đi đào tạo thạc sỹ và tiến sỹ. Trường vẫn chưa có biện pháp hữu hiệu nào để thu hút, giữ chân, tạo cơ hội phát triển và thăng tiến cho đội ngũ giáo viên. Theo kết quả khảo sát 64 giáo viên trường THPT Bình Sơn ( mẫu phụ lục 1): số ngưòi có tổng điểm 55 điểm trở lên ( hoàn toàn hài lòng với công việc) là 22 người = 34,3%, số người có tổng điểm từ 35-55 điểm ( có vấn đề cần quan tâm) là 34 người = 53,1%, số người có tổng điểm dưới 45 điểm ( có vấn đề nghiêm trọng) là 8 người = 12,5% càng khẳng định rõ ràng những tồn tại trên. 2.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC QUẢN LÝ NHẰM PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRƯỜNG THPT BÌNH SƠN, TỈNH VĨNH PHÚC. Ở trên là những tồn tại cơ bản trong việc quản lý nhằm phát triển đội ngũ giáo viên, và cũng là những tồn tại trong chất lượng đội ngũ giáo viên trường THPT Bình Sơn trong giai đoạn hiện nay. Những tồn tại đó là lực cản trên con đường trường THPT Bình Sơn thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình, thực hiện mục tiêu, chiến lược phát triển giáo dục của Đảng trong thời kỳ CNH và HĐH. Trên cơ sở xác định cơ sở lý luận, pháp lý, phân tích thực trạng trong việc quản lý nhằm phát triển đội ngũ giáo viên trường THPT Bình Sơn, tôi nhận thấy có những vấn đề đặt ra là: Cần bồi dưỡng năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm, năng lực xã hội hoá giáo dục, năng lực ngoại ngữ, tin học, lòng nhân ái sư phạm, tạo điều kiện để giáo viên có cơ hội học tập bồi dưỡng để phát triển cho đội ngũ gia
File đính kèm:
- de tai boi duong giao vien gioi.doc