Đề tài Chỉ đạo và quản lý ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy tại trường Tiểu học Phú Nhiêu, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình

Công nghệ thông tin (CNTT), là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin. CNTT là sử dụng máy tính và phần mềm máy tính để sử dụng, chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền, và thu thập thông tin. Ở Việt Nam, khái niệm CNTT được hiểu là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội.

CNTT mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới phương pháp và hình thức dạy học. Những phương pháp dạy học theo cách tiếp cận kiến tạo, phương pháp dạy học theo dự án, dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề càng có nhiều điều kiện để ứng dụng rộng rãi. Các hình thức dạy học như dạy học đồng loạt, dạy theo nhóm, dạy cá nhân cũng có những đổi mới trong môi trường CNTT và truyền thông.

Nếu trước kia người ta nhấn mạnh tới phương pháp dạy sao cho học sinh nhớ lâu, dễ hiểu, thì nay phải đặt trọng tâm là hình thành và phát triển cho học sinh các phương pháp học chủ động.

Nếu trước kia người ta thường quan tâm nhiều đến khả năng ghi nhớ kiến thức và thực hành kỹ năng vận dụng, thì nay chú trọng đặc biệt đến phát triển năng lực sáng tạo của học sinh. Như vậy, việc chuyển từ “lấy giáo viên làm trung tâm” sang “lấy học sinh làm trung tâm” sẽ trở nên dễ dàng hơn.

Nhờ sự phát triển của CNTT và truyền thông mà mọi người đều có trong tay nhiều công cụ hỗ trợ cho quá trình dạy học nói chung và phần mềm dạy học nói riêng. Nhờ có sử dụng các phần mềm dạy học này mà học sinh trung bình, thậm chí học sinh trung bình yếu cũng có thể hoạt động tốt trong môi trường học tập. Phần mềm dạy học được sử dụng ở nhà cũng sẽ nối dài cánh tay của giáo viên tới từng gia đình học sinh thông qua hệ thống mạng. Nhờ có máy tính điện tử mà việc thiết kế giáo án và giảng dạy trên máy tính trở nên sinh động hơn, tiết kiệm được nhiều thời gian hơn so với cách dạy theo phương pháp truyền thống, chỉ cần “bấm chuột”, vài giây sau trên màn hình hiện ra ngay nội dung của bài giảng với những hình ảnh, âm thanh sống động thu hút được sự chú ý và tạo hứng thú nơi học sinh. Thông qua giáo án điện tử, giáo viên cũng có nhiều thời gian đặt các câu hỏi gợi mở tạo điều kiện cho học sinh hoạt động nhiều hơn trong giờ học. Những khả năng mới mẻ và ưu việt này của CNTT và truyền thông đã nhanh chóng làm thay đổi cách sống, cách làm việc, cách học tập, cách tư duy và quan trọng hơn cả là cách ra quyết định của con người.

 

doc17 trang | Chia sẻ: nguyenngoc | Lượt xem: 2084 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Chỉ đạo và quản lý ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy tại trường Tiểu học Phú Nhiêu, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
áy mà còn làm cho người dạy lười không nghiên cứu bài dạy và kết quả là làm cho tiết dạy đạt hiệu quả thấp. 
b. Xây dựng bài giảng với sự hỗ trợ của máy tính.
Khái niệm giáo án điện tử và bài giảng điện tử là khái niệm mà nhiều nhà giáo, nhà nghiên cứu vẫn còn tiếp tục tranh luận, ở đây tôi chỉ muốn nói nên những hiểu biết của mình về việc ứng dụng CNTT trong xây dựng bài giảng.
Bài giảng có ứng dụng CNTT nói chung được xây dựng bằng máy tính với các phần mềm hỗ chợ chuyên dụng như: phần mềm trình chiếu Microsoft PowerPoint, phần mềm Movie Maker, Violet, Geo Sketchpad,  Carbi, Crocodile Clips, Crocodile Physics, Macromedia Flash,… và sự hỗ trợ của máy chiếu Projecter, camera cùng các thiết bị khác.
Những năm gần đây, việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là một quá trình đổi mới từ mục tiêu, nội dung, phương pháp đến đổi mới về phương tiện, các thiết bị dạy học ngày càng phong phú về số lượng nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao. Việc xây dựng và ứng dụng các phần mềm vào dạy học hiện nay đang được nhiều trường, nhiều giáo viên thực hiện để thiết kế bài giảng nhằm đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Đây là một trong những hướng đổi mới PPDH đạt hiệu quả.Do đó, CNTT có vai trò rất quan trọng trong dạy học, nó mang lại hiệu quả cao, tiết học sinh động, học sinh hứng thú học tập và tích cực tham gia xây dựng bài. Tuy nhiên, khi ứng dụng CNTT vào thiết kế bài giảng, giáo viên cần đảm bảo các nguyên tắc chung, các quy trình thiết kế bài giảng có ứng dụng CNTT sao cho có hiệu quả.
Dạy học với CNTT đòi hỏi người giáo viên phải biết định hướng, điều khiển quá trình học tập, giúp học sinh tự mình lĩnh hội tối đa kiến thức. Vì vậy giáo viên cần phải tích cực bồi dưỡng kiến thức tin học, sẵn sàng đổi mới phương pháp giảng dạy và ứng dụng CNTT vào dạy học phù hợp với đặc trưng bộ môn. 
c. Các nguyên tắc chung của một bài giảng có ứng dụng CNTT.Đảm bảo tính khoa học sư phạm và khoa học tin học.Đảm bảo tính hiệu quả, tính thực tế, tính giáo dục.Đảm bảo tính mở và tính phổ thông.Đảm bảo tính cập nhật nội dung kiến thức bài giảng.Cần căn cứ vào mục tiêu, nội dung kiến thức cơ bản của bài học, xác định trọng tâm bài và căn cứ trình độ nhận thức của học sinh cùng các điều kiện hiện có để thiết kế bài giảngĐa dạng hóa kiến thức. 
Ứng dụng CNTT đảm bảo quan điểm dạy học tích cực, lấy học sinh làm trung tâm, tránh hiện tượng nhìn chép.
2.4.2. Một số kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTT trong dạy học.
a. Những chú ý khi thiết kế bài giảng  có ứng dụng CNTT. 
Ba khâu quan trọng nhất: soạn giáo án, trình chiếu giáo án và hướng dẫn học sinh ghi chép. 
Mỗi lớp học thường có trung bình từ 25 - 35 học sinh. Trong khi đó các tiết dạy giáo án điện tử thường phải tắt bớt đèn, đóng bớt cửa sổ hay kéo rèm hạn chế ánh sáng trời để ảnh trên màn hình rõ hơn. Như vậy, những học sinh ngồi ở các dãy cuối lớp hay những học sinh mắt kém sẽ khó khăn khi quan sát hình ảnh, chữ viết hay công thức trên màn chiếu. Do đó để học sinh có thể ghi chép được bài học chính xác từ màn chiếu, giáo viên khi soạn giáo án trên Power Point cần chú ý một số nguyên tắc về hình thức sau:
- Các trang trình chiếu phải đơn giản và rõ ràng.
- Không sao chép nguyên văn bài dạy, chỉ nên đưa những ý chính vào mỗi slide.
Về màu sắc của trang trình chiếu:
Màu sắc không được lòe loẹt, không nên dùng các hình đồ họa vui nhộn gây mất tập trung cho học sinh. Cần tuân thủ nguyên tắc tương phản, chỉ nên sử dụng chữ đậm màu (đen, xanh đậm, đỏ đậm…)trên nền trắng hay nền màu sáng. Ngược lại, khi dùng màu nền sậm thì chỉ nên sử dụng chữ có màu sáng hay trắng.
Về font chữ: 
Dùng các phông chữ, khung, nền hợp lí. (vd: nền màu trắng, màu đỏ cho các đề mục có vai trò ngang nhau “cỡ chữ, kiểu chữ giống nhau”, màu xanh mực cho học sinh ghi vào vở…)
Chỉ nên dùng các font chữ đậm, rõ và gọn, không chân (Arial, Tahoma, VNI-Helve…) hạn chế dùng các font chữ có đuôi (VNI-times…) vì dễ mất nét khi trình chiếu.
Về cỡ chữ:
Giáo viên thường muốn chứa thật nhiều thông tin trên một slide nên hay có khuynh hướng dùng cỡ chữ nhỏ. Thực tế, trong kỹ thuật video, khi chiếu trên màn hình TV (25 inches) cho vài người xem hay dùng máy chiếu Projector chiếu lên màn cho khoảng 50 người xem thì cỡ chữ thích hợp nên từ khoảng 20 đến 30 trở lên mới đọc rõ được. Tuy nhiên, với đối tượng học sinh tiểu học, không nên dùng cỡ chữ quá to, trông trang chiếu thô và không mỹ thuật.
Về trình bày nội dung trên một slide: 
Giáo viên không nên trình bày nội dung tràn lấp đầy nền trang từ trên xuống, từ trái qua phải, mà cần chừa ra khoảng trống đều hai bên và trên dưới theo tỷ lệ thích hợp (thường là 1/5), để đảm bảo tính mỹ thuật, sự sắc nét và không mất chi tiết khi chiếu lên màn. Khi khai thác đa phương tiện (hình ảnh, âm thanh, hiệu ứng…) cần phải được lựa chọn cẩn thận, nếu không chúng sẽ gây phân tán tư tưởng, tư duy lệch lạc trong học sinh. Những tranh, ảnh hay đoạn phim minh họa dù hay nhưng mờ nhạt, không rõ ràng thì cũng không nên sử dụng vì không có tác dụng cung cấp thông tin như ta mong muốn.
Trình chiếu giáo án
Khi giáo viên trình chiếu Power Point, để học sinh có thể ghi chép kịp thì nội dung trong mỗi slide không nên xuất hiện dày đặc cùng lúc. Ta nên phân dòng hay phân đoạn thích hợp, cho xuất hiện theo hiệu ứng thời gian tương ứng. Trường hợp có nội dung dài mà nhất thiết phải xuất hiện trọn vẹn cùng lúc, ta trích xuất từng phần thích hợp để giảng, sau đó đưa về lại trang có nội dung tổng thể, học sinh sẽ dễ hiểu và dễ chép hơn.
Hướng dẫn học sinh ghi chép:
Cần thể hiện bố cục của bài giảng trong suốt quá trình giảng dạy. (vd: Tên bài dạy, các đề mục) để học sinh dễ dàng củng cố.Cần quy định màu chữ cho học sinh ghi vào vở. (vd: màu xanh mực…) và cần quy định để học sinh có thể tự ghi khi nhìn màn hình.Trong tiết học, học sinh phải có sẵn trước mặt sách giáo khoa quy định của Bộ GD&ĐT và dùng vở để ghi chép. Khi trình chiếu Power Point và giảng bài, giáo viên hướng dẫn học sinh cách ghi bài học vào vở như sau:Những kiến thức căn bản, thuộc nội dung giáo khoa quy định sẽ nằm trong các slide có ký hiệu riêng.
Những nội dung có tính thuyết minh, minh họa, mở rộng kiến thức sẽ nằm trong các slide khác, không có ký hiệu riêng. Với những slide này, học sinh tự chọn học nội dung để chép tùy theo sự hiểu bài của mình.Với những kiến thức căn bản nhưng khá dài, nếu chép hết sẽ ảnh hưởng đến tiến độ của tiết học, sau khi giảng xong giáo viên hướng dẫn học sinh đánh dấu trong sách giáo khoa để về nhà chép (học sinh sẽ chừa khoảng trống thích hợp).
Nguyên tắc giáo dục chủ động là lấy học sinh làm trung tâm. Giáo viên trong quá trình giảng dạy là phải đảm bảo được việc học sinh nắm được kiến thức trọng tâm, nhưng giáo viên không có quyền bắt học sịnh công nhận tất cả các đơn vị kiến thức. Chính bản thân học sinh, trong khi tham gia tích cực vào tiết học, sau khi tìm hiểu lại sách giáo khoa và tìm tòi ở các phương tiện hỗ trợ, sẽ chọn lọc đúc kết những kiến thức của tiết học và ghi chép, lưu trữ cho riêng mình.
b. Các tiêu chí đánh giá bài giảng:
Kế hoạch bài giảng được thể hiện cụ thể, rõ ràng và logic, nêu bật mục tiêu, nội dung, tiến trình bài giảng.
Thể hiện được các yêu cầu của phương pháp dạy học tiên tiến, phát huy tính tích cực của học sinh.
Nội dung bài giảng bám sát kiến thức cơ bản của chương trình theo quy định, có tính hệ thống và khoa học. 
Sử dụng và tích hợp các công cụ công nghệ thông tin sáng tạo, hợp lý, nhằm phát huy tối đa chất lượng, tính hấp dẫn trong bài giảng; thu hút và tạo môi trường tương tác tích cực giữa giáo viên và học sinh và giữa học sinh với nhau.
Hình thức tổ chức, bố trí nội dung bài giảng khoa học, dễ hiểu, thân thiện.
Hiệu quả, tác động và ảnh hưởng của bài giảng đối với môi trường giáo dục.
c. Khai thác mạng Internet phục vụ dạy học:
Một trong các điều kiện quan trọng nhất để tăng cường hiệu quả giáo dục và chất lượng giảng dạy là tìm kiếm nguồn tư liệu phong phú và phù hợp để bổ sung những nội dung được quy định trong chương trình và sách giáo khoa. Internet là nguồn tư liệu vô tận cho các bài giảng sẽ giúp giáo viên và học sinh đáp ứng được yêu cầu đó .
2.4.3. Lợi ích từ internet đối với giáo viên:
Giáo viên có thể tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ tin học khi tham gia vào các diễn đàn, các câu lạc bộ, hay tìm hiểu các trang Web từ mạng internet.
Giáo viên có thể tải các giáo án, bài giảng, tư liệu, đề thi và tài liệu phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy. 
Qua mạng internet giáo viên có thể tham gia vào các diễn đàn của học sinh, các trường bạn, các blog … để tìm hiểu về tâm lý, sở thích của học sinh từ đó có những phương pháp giáo dục học sinh đạt hiệu quả cao.
Giáo viên có thể lập blog, trang web hay các câu lạc bộ để trao đổi cùng đồng nghiệp, phụ huynh và học sinh để nâng cao trình độ chuyên môn cũng như nghiệp vụ sư phạm của mình.
2.4.4. Hạn chế: 
Nhiều giáo viên còn chưa thấy được các lợi ích từ việc khai thác internet, có nhiều người nghĩ rằng internet chỉ là để đọc báo, để giải trí, cũng có người sợ mình không biết cách khai thác mạng.
Nhiều GV chưa có điều kiện để nối mạng internet hoặc là không có thời gian nghiên cứu khai thác mạng internet phục vụ công tác dạy học.
Có những giáo viên còn yếu về kiến thức, kĩ năng tin học, rất lúng túng khi truy cập, khai thác mạng internet (tìm trang, download, lưu trữ, đưa vào bài giảng…)
Có những giáo viên ngại học, ngại tìm hiểu nghiên cứu  để nâng cao trình độ, bằng lòng với những kiến thức mình đã có. 
2.5. Ứng dụng CNTT vào dạy học và vai trò của CBQL và giáo viên:
Thời gian gần đây, phong trào thi đua soạn bài giảng điện tử để đổi mới cách dạy và học đã được CBGV trường tiểu học Phú Nhiêu hưởng ứng tích cực. Đây được coi là con đường ngắn để nâng cao chất lượng dạy học trong các nhà trường, tuy nhiên để CBGV có thể làm chủ được CNTT còn nhiều vấn đề cần bàn…
Việc ứng dụng CNTT trong dạy học cho đến nay không còn mới mẻ, nhưng cũng chưa hẳn đã được phổ biến rộng rãi, nhiều 

File đính kèm:

  • docsang kien quan ly va ung dung CNTT truong tieu hoc.doc
Giáo án liên quan