Bài tập Điều kiện địa lý địa phương: Địa lý tự nhiên tỉnh Thanh Hóa - Phạm Thị Phương Hoàn
2.Đặc trng về vị trí địa lý và ý nghĩa của nó trong phát triển kinh tế xã hội
Thanh hoá nằm ở vị trí trung chuyển giữa các tỉnh phía bắc và các tỉnh phía nam nớc ta. Trong lịch sử nơi đây từng là căn cứ địa vững chắc chống ngoại xâm, là kho nhân tài vật lực phục vụ tiền tuyến .
Tỉnh Thanh Hoá nằm trong khu vực chịu ảnh hởng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Với 102 km đờng bờ biển ở đây có thể phát triển hoạt động du lịch, khai thác cảng biển (cảng Nghi Sơn, Lễ Môn). ở đây lại có đờng quốc lộ 1A, đờng Hồ Chí Minh và đờng sắt xuyên Việt chạy qua. Thêm vào đó, Thanh Hóa có quy mô diện tích lớn với nhiều vùng sinh thái khác nhau.
Những yếu tố đó là điều kiện thuận lợi để Thanh Hoá có thể phát triển một nền sản xuất hàng hoá đa dạng với những ngành mũi nhọn đặc thù, phát triển mạnh kinh tế, mở rộng giao lu trong nớc và trên thế giới, đa nền kinh tế của tỉnh nhanh chóng hội nhập với các tỉnh và thành phố trong cả nớc.
3. Sự phân chia hành chính .
Thanh Hoá hiện nay là tỉnh có nhiều đơn vị hành chính nhất trong số 64 tỉnh thành phố của nớc ta. Bao gồm 1 thành phố, 3 thị xã, 23 huyện với 151 xã, 21 phờngvà 28 thị trấn.
Thành phố Thanh Hoá là trung tâm kinh tế hành chính văn hoá của tỉnh.
Ba thị xã trực thuộc tỉnh là TX. Bỉm Sơn (ở phía bắc của tỉnh), TX. Sầm Sỏn (nằm giáp biển và là một trong những trung tâm du lịch biển của Miền Trung) và TX. Ngọc Lặc là thị xã miền núi nằm ở phía tây của tỉnh, mới đợc nâng cấp lên thành thị xã năm 2004.
Trong số 23 huyện của tỉnh có 8 huyện đồng bằng (Thọ Xuân, Đông Sơn, Nông Cống, Triệu Sơn, Yên Định, Thiệu Hoá, Hà Trung,Vĩnh Lộc); 5 huyện ven biển(Nghi Sơn, Hoàng Hoá, Hậu Lộc,Quảng Xơng, Tĩnh Gia) và 10 huyện trung du miền núi (Nh Xuân, Nh Thanh, Lang Chánh, Bá Thớc,
ng sản, nhiều loại có trữ lượng lớn so với cả nước như: đá vôi xi măng, đá ốp lát, sét làm xi măng, sét gạch ngói, crôm , secpentin, đôlômit. a)Khoáng sản kim loại Gồm có: Sắt – mangan, ti tan, thiếc, đồng, chì, kẽm, crôm , vàng. Quặng sắt – mangan có trữ lượng khoảng 3 triệu tấn, phân bố ở Quan Hoá, Bá thước, Như Xuân, Cẩm Thuỷ, Thạch Thành . Quặng imenhit chất lượng tốt, được phân bố ở Quảng Xương, Sầm Sơn, Hậu Lộc, Hoàng Hoá. Quặng crôm với trữ lượng 5 triệu tấn, chất lượng tốt, phân bố ở Cổ Định (Triệu Sơn), Ngọc Lặc. Đây là mỏ crôm có trữ lượng lớn ở Đông Nam á và là mỏ duy nhất ở nước ta. Các mỏ kim loại màu khác thường có quy mô nhỏ như thiếc ở Thường Xuân, Bá Thước, Lang Chánh; chì - kẽm ở Quan Hoá, Như Xuân, Tĩnh Gia. Vàng sa khoáng phân bố ở hầu khắp các huyện miền núi, tập trung chủ yếu ở các huyện Cẩm Thuỷ, Bá Thước,Thường Xuân,hàm lượng vàng gốc từ 2g/tấn đến 6-7g/tấn. b) Khoáng sản phi kim Khoáng sản làm nguyên liệu phân bón, trợ dung hoá chất,các nguyên liệu khác gồm : Phốtphorit có trữ lượng 1triệu tấn chất lượng trung bình, phân bố tập trung ở các huyện Ngọc Lặc, Cẩm Thuỷ, Thường Xuân và còn có ở Tĩnh Gia, Nông Cống, Hoằng Hóa, Hà Trung. Secpentin: trữ lượng 15 triệu tấn, chất lượng khá tốt, phân bố tập trung ở huyện Nông Cống. Đôlômít: trữ lượng 4,7 triệu tấn, chất lượng rất tốt, phân bố ở thành phố Thanh Hoá, huyện Nga Sơn c) Khoáng sản vật liệu xây dựng Khoáng sản làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng có đá ốp lát, trữ lượng 2-3 tỉ m3, chất lượng tốt, nhiều màu sắc và độ bền cao. Đá vôi làm xi măng có trữ lượng 370 triệu tấn, chất lượng tốt, phân bố ở Hà Trung, Bỉm Sơn, Cẩm Thuỷ, Thạch ThànhĐất sét làm gạch ngói trữ lượng trên 20 triệu m3, chất lượng tốt phân bố ở Hà Trung, Thạch Thành, Thiệu Yên, Tĩnh Gia. Cát thuỷ tinh có trữ lượng 547.000 tấn, chất lượng tốt phân bố ở Tĩnh Gia. d)Khoáng sản năng lượng: Trữ lượng than đá ở Thanh Hoá thấp, chỉ phát hiện được những mỏ than non ở các vùng Cẩm Thuỷ, Thạch Thành. Trữ lượng than bùn lớn có trên 2 triệu tấn, chất lượng thấp, nhưng độ đạm và mùn cao, phân bố ở Vĩnh Lộc, Hà Trung, Thọ Xuân , Là nguyên liệu chính để sản xuất phân bón vi sinh. Như vậy, tài nguyên khoáng sản ở Thanh Hoá phong phú, đa dạng, nhiều loại có giá trị kinh tế. Đây là cơ sở quan trọng để phát triển một số ngành công nghiệp như khai thác, sản xuất vật liệu xây dựng của tỉnh. III. Địa hình Đặc điểm chung: Địa hình Thanh Hoá khá phức tạp, chia cắt nhiều và thấp dần theo hướng tây- đông. Từ phía tây sang phía đông có các dải địa hình núi, trung du, đồng bằng và ven biển. Trong tổng diện tích 11.116,3km2 thì địa hình núi, trung du chiếm 73,3% ; đồng bằng 16% và vùng ven biển 10,7%. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành phát triển của địa hình. Địa hình núi trung du gắn liền với hệ núi cao phía tây bắc và hệ núi Trường Sơn ở phía nam. Đó là dải địa hình nằm ở rìa ngoài của miền tây nam Bắc Bộ đang được nâng lên, tiếp giáp với miền sụt võng là các đồng bằng châu thổ. Đây là những khu vực núi thấp uốn nếp được cấu tạo bằng nhiều loại đá khác nhau, từ các đá trầm tích (đá phiến, đá vôi, cát kết, cuội kết, sỏi kết) đến các đá phun trào (xplit, riolit, badan), đá xâm nhập (granit), đá biến chất (đá hoa). Chúng nằm xen kẽ với nhau, có khi lồng vào nhau và điều đó làm cho phong cảnh thay đổi không ngừng . Địa hình đồng bằng được hình thành bởi sự bồi tụ của các hệ thống sông Mã, sông Chu, sông Yên. Còn dải địa hình ven biển như sau: với các đảo đá vôi rải rác ngoài vụng biển, dòng phù sa ven bờ được đưa ra từ các cửa sông đã tạo nên những thành tạo trầm tích dưới dạng mũi tên cát cô lập dần những khoảng biển ở phía trong và biến chúng thành những đầm nước mặn. Những đầm này về sau bị phù sa sông lấp dần, còn những mũi tên cát thì ngày càng phát triển rộng thêm, nối những cồn cát duyên hải thành những chuỗi dài chạy theo hướng Tây bắc - đông nam dạng xoè nan quạt. Các khu vực địa hình. Bao gồm có 3 dạng địa hình: núi và trung du; đồng bằng ven biển. _ Địa hình núi có độ cao trung bình 600 -700m , độ dốc trên 250. ở đây có những đỉnh núi cao như Tà Leo (1560 m) ở hữu ngạn sông Chu,Bù Ginh(1291m) ở tả ngạn sông Chu. Địa hình trung du có độ cao trung bình 150 – 200m , độ dốc 12 - 200,chủ yếu là các dạng đồi thấp, đỉnh bằng, sườn thoải. Dạng địa hình này rất đặc biệt, chỉ nhấp nhô lượn sóng và rất thoải. Dạng địa hình núi và trung du phân bố ở 11 huyện miền núi của tỉnh. Là đièu kiện thuận lợi để phát triển các ngành nông- lâm nghiệp với các loại cây lâm sản và các cây như đậu, chè, lạc, mía các cây trồng nói trên là cơ sở để phát triển ngành chế biến nông - lâm sản của Thanh Hoá . _ Đồng bằng châu thổ Thanh Hoá được cấu tạo bởi phù sa hiện đại, trải ra trên một bề mặt rộng hơi nghiêng về phía biển ở mé đông nam. Rìa bắc và tây bắc là dải đất cao được cấu tạo bởi phù sa cũ của sông Mã, sông Chu, cao từ 2- 15m . Trên đồng bằng nhô lên một số đồi núi có độ cao trung bình 200-300m dược cấu tạo bằng nhiều loại đá khác nhau. _ Dạng địa hình ven biển phân bố chủ yếu ở các huyện thị xã Sầm Sơn, Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Quảng Xương, Tĩnh Gia. Trên địa hình này có các vùng sình lầy ở Nga Sơn và các cửa sông Mã, sông Yên Vùng đất cát ven biển nằm ở phía trong các bãi cát, có độ cao trung bình từ 3- 6m, ở phía nam Tĩnh Gia chúng có dạng sống trâu do các dãy đồi kéo dài ra biển. Bờ biển củađồng bằng Thanh Hoá là bờ biển phẳng với thềm lục địa tương đối nông và rộng. Trên địa hình ven biển này có bãi tắm nổi tiếng Sầm Sơn. Đây là một trong những điểm du lịch hấp dẫn thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. Vậy là qua tìm hiểu về địa hình, ta thấy địa hình của Thanh Hoá rất phong phú, đa dạng là điều kiện để Thanh Hoá phát triển các ngành nông- lâm – ngư nghiệp toàn diện và cho phép chuyển dịch cơ cấu dễ dàng trong nội bộ từng ngành. Nhiều cảnh quan đẹp kết hợp giữa rừng – biển - đồng bằng là điều kiện để phát triển du lịch, dịch vụ. Độ cao chênh lệch giữa các vùng miền núi,trung du, đồng bằng, với nhiều hệ thống sông suối, tạo ra tiềm năng thuỷ điện khá phong phú IV. khí hậu Là một tỉnh ở phíabắc của Trung Bộ, khí hậu Thanh Hoá mang đầy đủ những nét chung nhất của khí hậu miền Bắc Việt Nam. Đó là kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh độc đáo đồng thời hình thành nên nhiều kiểu thời tiết đặc biệt. Là kết quả giao thoa và cộng hưởng của biến trình tuần hoàn nhiệt, ẩm ở miền vĩ độ nhiệt đới, với cơ chế gió mùa phức tạp của khu vực gió mùa Đông Nam á, trên nền địa hình miền Bắc Việt Nam. Khí hậu Thanh Hoá có ba đặc điểm chính: Khí hậu Thanh Hoá có tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa Thanh Hoá nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa. Khí hậu có 2 mùa rõ rệt, mùa nóng trùng với mùa mưa và mùa lạnh trùng với mùa khô. Đặc biệt, trong mùa nóng có sự xuất hiện của gió Tây vào đầu mùa hạ. Do lãnh thổ kéo dài hơn 1 vĩ độ, đồng thời lại nằm trong khu vực nội chí tuyến, hàng năm tại Thanh Hoá có hai lần mặt trời lên thiên đỉnh vào trước và sau ngay hạ chí 22/6. Tổng lượng bức xạ trung bình năm đạt 100 kcal/cm2/năm và nhiều nơi đạt 125 kcal/cm2/năm. Nhiệt độ trung bình năm vào khoảng 23 – 24 0C ở vùng đồng bằng và trung du; giảm dần khi lên vùng và xuống 18 – 200C ở biên giới Việt – Lào. Hằng năm có 4 tháng nhiệt độ trung bình xuống dưới 200C (từ tháng XII đến tháng III), tháng lạnh nhất là vào tháng I với nhiệt độ trung bình khoảng 17 – 180C (cao hơn Đồng Bằng Bắc Bộ khoảng 10C). Tổng nhiệt độ cả năm vào khoảng 8.600 – 8.7000C ở vùng đồng bằng, giảm xuống 8.0000C ở miền núi . Lượng mưa trung bình năm từ 1.600 – 1.800 mm. Số ngày mưa từ 130 – 150 ngày/năm. Mùa mưa thường kéo dài 6 tháng, bắt đầu từ tháng V kết thúc vào tháng X . Các tháng mưa nhiều là VIII, IX, X. Mùa mưa tập trung 60 – 80% lượng mưa của cả năm nên dễ gây ra lũ lụt, nhất là ở những vùng có địa hình thấp như các huyện ven biển. khí hậu Thanh Hoá có sự biến động mạnh mẽ. Sự diễn biến của gió mùa Đông bắc và gió mùa Tây nam làm cho khí hậu Thanh Hoá trở nên thất thường,biến động. Có năm gió mùa Đông bắc mạnh đem lại một mùa đông lạnh kéo dài ; có năm gió mùa Đông bắc lại yếu, thời tiết nóng sớm đến bất thường. Gió mùa Tây nam cũng có năm mạnh gây mưa nhiều và lũ lớn, có năm lại hoạt động yếu gây hạn hán cả trong mùa hè ; năm thì bão nhiều năm lại không có bão. Như vậy tính chất biến động thể hiện cả ở chế độ nhiệt và chế độ mưa. Chế độ nhiệt thể hiện sự giao động của nhiệt độ tháng, sự giao động của ngày bắt đầu và kết thúc của các mùa nóng, lạnh. Tính biến động của chế độ mưa thể hiện ở sự biến động lượng mưa hàng năm, lượng mưa của từng mùa và lượng mưa của mỗi tháng. Khí hậu Thanh Hoá có sự phân hoá rõ rệt theo không gian và thời gian. Do có hình dáng lãnh thổ rộng dài, phía đông giáp biển lại có nhiều vùng núi cao nên khí hậu Thanh Hoá có sự phân hoá theo không gian. Nhiêt độ giảm dần từ thấp lên cao; tăng dần từ bắc vào nam và giảm dần từ đông sang tây. Bên cạnh đó khí hậu Thanh Hoá còn thay đổi theo thời gian và đây cũng là một đặc điểm chung của khí hậu Việt Nam. Các đặc điểm trên của khí hậu Thanh Hoá được minh chứng cụ thể qua bảng số liệu về nhiệt độ và lượng mưa trung bình các tháng trong năm như sau: Bảng1: Nhiệt độ và lượng mưa trung bình các tháng trong năm của Thanh Hoá Tháng I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII Cả năm Nhiệt độ(0C) 17.0 17.3 19.8 23.5 27.2 28.9 29.0 28.2 26.4 24.5 22.4 18.6 23.6 Lượng mưa(mm) 24.9 30.9 40.8 59.2 156.9 178.7 202.7 278.3 404.0 263.5 76.5 28.5 1744.9 V.Thuỷ văn. Nguồn nước ở tỉnh Thanh Hoá dồi dào bao gồm cả nước mặt và nước ngầm, có thể đáp ứng được nhu cầu phát triển sản xuất và đời sống nhân dân. 1.Về nước mặt. Do địa hình phức tạp mạng lưới sông ngòi Thanh Hoá khá phong phú và mang nhiều tính chất chung của mạng lưới sông ngòi miền Bắc Việt Nam. Thanh Hoá có 20 sông lớn nhỏ chảy từ tây bắc xuống đông nam và 264 khe suối chằng chịt thuộc 4 hệ thống sông chính là : sông Mã, sông Lạch Bang, sông Yên, sông Hoạt. Tổng chiều dài các hệ thống sông là 881km, tổng diện tích lưu vực : 39.756
File đính kèm:
- Dia ly tự nhiên tinh Thanh Hoa.doc