Tìm hiểu Lịch sử về Trinh - Nguyễn phân tranh

Nhà Hậu Lê từ khi Trung Hưng lên, con cháu vẫn giữ ngôi vua, nhưng quyền chính trị nằm cả trong tay họ Trịnh. Còn ở phía nam, từ sông Linh Giang trở vào là cơ nghiệp của họ Nguyễn. Tuy vậy, hai họ chỉ xưng chúa, chứ không xưng vua, và bề ngoài vẫn tôn phù nhà Lê.

  Lê Kính Tông (1600-1619):

Niên hiệu:

- Thuận Ðức (1600);

- Hoằng Ðịnh (1601-1619).

Vua Kính Tông huý là Duy Tân, là con thứ của Thế Tông. Khi vua Thế Tông băng hà, Bình An Vương Tịnh Tùng cùng với triều thần cho rằng thái tử (anh của Duy Tân) không thông minh, bèn lập con thứ là Duy Tân, khi đó mới 11 tuổi. Duy Tân được triều thần đưa lên ngôi ngày 27 tháng 8 năm Kỷ Hợi (1599), đại xá, đổi niên hiệu là Thuận Ðức, lấy năm Canh Tý (1600) làm năm Thuận Ðức thứ nhất.

Từ năm này, bước sang thế kỷ 17, tình hình chính trị trong nước chuyển biến theo một cục diện mới. Ở ngoài Bắc, về cơ bản họ Trịnh với tài năng quân sự và thái độ cứng rắn của Trịnh Tùng đã cơ bản dẹp tan được chính quyền nhà Mạc ở kinh đô và đồng bằng Bắc Bộ. Nhưng các dư đảng nhà Mạc thì vẫn nổi lên khắp các tỉnh trung du và miền núi Việt Bắc. Nhà Lê Trịnh vẫn phải nhiều lần phái những đội quân lớn do Thái phó Thanh quận cộng Trịnh Kháng và các thuộc tướng Nguyễn Văn Giai, Nguyễn Cảnh Kiên, Tạ Thế Phúc, Nguyễn Khải, Nguyễn Hắc, Nguyễn Duy Thì. đem quân đánh Mạc. Cũng vào thời này vấn đề tranh giành quyền lực và xung đột giữa họ Trịnh ở Ðàng ngoài và họ Nguyễn ở Ðàng trong bắt đầu đặt ra với việc Nguyễn Hoàng tự ý bỏ vào Thuận Quảng. Nhân cơ hội ấy dư đảng của nhà Mạc lại nổi lên. Trong tình hình đó, Vua Lê Kính Tông cùng với Trịnh Xuân (con thứ của Trịnh Tùng) mưu giết Trịnh Tùng nhưng không thành. Trịnh Xuân bị giam vào nội phủ, còn vua Kính Tông bị bức thắt cổ chết ngày 12 tháng 5 năm Kỷ Mùi.

 

doc7 trang | Chia sẻ: giathuc10 | Lượt xem: 1380 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm hiểu Lịch sử về Trinh - Nguyễn phân tranh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lập Duy Vũ làm Hoàng thái tử, phế Duy Tào làm thứ nhân, theo về họ mẹ.
Ngày 22 tháng 9 năm đó, vua băng hà. Như vậy vua Thần Tông nhà Lê là ông vua thứ hai sau Lê Thánh Tông có số năm trị vì dài tới 38 năm. Ông vua này trải 3 đời vương bên phủ chúa Trịnh: từ Bình An Vương Trịnh Tùng tới Thanh Vương (Trịnh Tráng) rồi đến Tây Vương Trịnh Tạc. Ðời bấy giờ cho vua Thần Tông là bậc vua giỏi, nhưng có chê ở hai điểm: chốn cung vi không có đế độ và mê hoặc phật giáo.
 ♦ Lê Huyền Tông (1663-1671): 
Niên hiệu: Cảnh Trị.
Huyền Tông tên là Duy Vũ, con Thần Tông, em của Chân Tông, khi Thần Tông mất Vũ mới lên 9 tuổi, Tây vương Trịnh Tạc theo di mệnh lập nên. Duy Vũ là con do Phạm Thị Ngọc Hậu, người làng Quả Nhuệ, huyện Lôi Dương (Thọ Xuân, Thanh Hoá) sinh ra.
Năm Ất Tỵ (1665), mặc dù mới 11 tuổi, nhà vua cũng sách lập chính cung Trịnh Thị Ngọc Áng làm hoàng hậu. Trịnh Thị Ngọc Áng là con thứ của Tây vương Trịnh Tạc. Khi vua lên ngôi đón vào trong cung, lấy làm Hoàng hậu.
Bấy giờ ở bên Trung Quốc, nhà Minh đã mất, nhà Thanh lên, tháng 3 năm Ðinh Mùi (1667) nhà Thanh sai sứ sang phong cho vua làm An Nam quốc vương. Vua Lê sai chánh sứ Lê Hiệu, phó sứ Dương Hạo và Ðồng Tồn Trạch sang nhà Thanh  nộp lễ cống hàng năm và tạ ơn việc tặng bạc lụa. Ðây là lần đầu tiên nước ta có quan hệ ngoại giao với triều Thanh. 
Ở ngôi được 9 năm, ngày 15 tháng10 năm Tân Hợi (1671) vua băng hà, lúc này mới có 18 tuổi, không có con nối.
 ♦ Lê Gia Tông (1672-1675): 
Niên hiệu: 
- Dương Ðức (1672-1673); 
- Ðức Nguyên (1674-1675).
Vua huý là Duy Cối, con thứ của Thần Tông. Trước đấy, khi Thần Tông băng, Hoàng thái tử Duy Cối (có sách chép là Duy Khoái) mới lên 2 tuổi, vương Trịnh Tạc và vương thị là Trịnh Thị Ngọc Lung đón về nuôi ở trong vương phủ, dạy bảo, hun đúc, giúp nên đức tính. Khi Huyền Tông băng hà, không có con nối ngôi, Trịnh Tạc bèn xuống chỉ cho Tiết chế phủ và các đại thần văn võ trăm quan lập Hoàng đệ Lê Duy Cối lên ngôi vua, khi đó ông mới 11 tuổi. Vua làm lễ đăng quang vào ngày 19 tháng 11 năm Tân Hợi (1671) lấy niên hiệu Dương Ðức, tôn chính phi của vương là Trịnh Thị Ngọc Lung làm Quốc thái mẫu.
Năm Giáp Dần (1674) vua tôn phong thân mẫu là Lê Thị Ngọc Hoàn (quê ở xã Phúc Lộc, huyện Thuỵ Nguyên, Thanh Hoá) làm Chiêu Nghi.
Nhà vua diện mạo khôi ngô, thân thể vạm vỡ, tính khoan hoà, có độ lượng của một ông vua. Vua ở được 4 năm, mất lúc 15 tuổi, không có con nối.
 ♦ Lê Hy Tông (1676-1705): 
Niên hiệu: 
- Vĩnh Trị (1678-1680); 
- Chính Hoà (1681-1705).
Lê Hy Tông có tên là Duy Cáp (có sách chép là Duy Hợp), là con thứ của Thần Tông và là em của Gia Tông. Khi Thần Tông qua đời, ông còn nằm trong bụng mẹ mới được 4 tháng. Thần Tông dặn dò Tây vương Trịnh Tạc bảo hộ, sau này cho Duy Cáp nối ngôi. Lúc Gia Tông chết Duy Cáp lên 13 tuổi, được Tây vương phò lên ngôi vua. Lấy ngày sinh làm “Thiên minh thánh tiết”. Nhà vua tuân giữ cơ nghiệp có sẵn, rũ tay áo mà hưởng cuộc thịnh trị. Kỷ cương thì chấn hưng, thưởng phạt thì nghiêm túc và công minh, phần nhiều các công khanh đều xứng đáng với chức vụ, trăm quan kính giữ phép tắc chế độ, nhân dân yên nghiệp làm ăn. Ðó là các năm dưới niên hiệu Vĩnh Trị (1676-1680) và Chính Hoà (1681-1704). Người đời bấy giờ ca ngợi là bậc nhất thời Trung Hưng. Tháng 4 năm Ất Dậu (1705), sau khi ở ngôi 30 năm, vua ban chiếu truyền ngôi cho Hoàng thái tử Lê Duy Ðường rời sang ở cung khác. Nhường ngôi rồi vua còn vui sống nhàn 12 năm nữa mới mất, thọ 54 tuổi.
 ♦ Lê Dụ Tông (1705-1728): 
Niên hiệu:
- Vĩnh Thịnh (1706-1719); 
- Bảo Thái (1720-1729).
Vua huý là Duy Ðường, con trưởng Lê Hy Tông, được nhường ngôi năm Ất Dậu (1705). Sau khi lên ngôi đổi niên hiệu là Vĩnh Thịnh.
Bấy giờ thừa hưởng cơ nghiệp thái bình, không xảy ra binh đao vì chiến tranh Trịnh - Nguyễn tạm dừng. Trong nước vô sự, triều đình có làm được nhiều việc. Pháp độ được đầy đủ, kỷ cương thi hành được hết. Xứ xa lạ thì dâng lễ vật tỏ lòng thành, Trung Quốc thì trả lại đất. Nhà vua giũ tay áo, ngồi ở trên, không phải khó nhọc mà mọi việc đâu ra đấy. Khi nói đến cuộc thịnh trị lúc bấy giờ người phải kể đến công lao giúp chính của chúa Trịnh Cương. Trịnh Cương cùng với các bồi tụng và tham tụng: Nguyễn Công Hãng, Lê Anh Tuấn, Nguyễn Công Cơ đều là người giúp việc rất đắc lực và liêm khiết, họ chủ trương cải cách trên nhiều lĩnh vực kinh tế-tài chính, thi cử, tổ chức hành chính, và quan lại... Nhưng các cải cách đó chưa thu được kết quả thì Trịnh Cương qua đời. Ngày 20 tháng 4 năm Kỷ Dậu (1729) nhà vua nhường ngôi cho Thái tử Duy Phương rồi ra ở cung Kiền Thọ, xưng là Thuận Thiên thừa vận Hoàng thượng, khi đó vua 49 tuổi. Như vậy vua Lê Dụ Tông làm vua được 24 năm, đặt niên hiệu hai lần: Vĩnh Thịnh (1705-1719) và Bảo Thái (1720-1729). Tháng Giêng năm Tân Hợi (1731) Thái thượng hoàng mất, thọ 52 tuổi.
 ♦ Lê Ðế Duy Phương - Hôn Ðức Công (1729-1732): 
Niên hiệu: Vĩnh Khánh Duy Phương làm vua được 3 năm, bị Trịnh Giang vu cho tư thông với vợ Trịnh Cương, phải bỏ, giáng xuống làm Hôn Ðức Công, rồi đến năm Nhâm Tý (1732) thì bị giết.
 ♦ Lê Thuần Tông (1732-1735): 
Niên hiệu: Long Ðức.
Sau khi Hoàng thái tử Lê Duy Phương được vua cha nhường ngôi, ban lời chiếu khá dài nói về công lao khai sáng của Lê Thái Tổ, công cuộc Trung Hưng và vai trò của các chúa Trịnh... rộng ban ân điển 5 điều cho thần dân cả nước. Nhưng ngôi vua của Lê Duy Phương không đứng vững, vì sau khi Trịnh Cương mất, Trịnh Giang lên nối nghiệp chúa thì tình hình lại thay đổi.
Nguyên do là, trước đó con trưởng của vua là Lê Duy Tường đã 28 tuổi, được ở ngôi đông cung đã được 10 năm, lẽ ra phải được truyền ngôi. Nhưng Duy Tường còn có một người em khác mẹ là Duy Phương, 19 tuổi, do chính phi Trịnh Thị (con gái Trịnh Cương) sinh ra. Trịnh Cương muốn bỏ nguời con cả để lập cháu ngoại của mình lên ngôi, mới quanh co làm ra lời ban phong quan, ban tước rồi ép vua Dụ Tông phải nhường ngôi cho Duy Phương. Duy Phương lên ngôi, ngay lập tức tôn mẹ là Trịnh Thị lên làm Hoàng thái hậu và lại tiếp tục lấy một chính phi họ Trịnh làm Hoàng hậu. Nhưng khi Trịnh Giang lên cầm quyền, muốn tỏ rõ uy quyền, Giang bỏ hết các phép tắc của vua. Các chính sách thuế khoá và tài chính mà Trịnh Cương cho thi hành từ các năm 1720-1730 đều bị huỷ bỏ. Về việc định ngôi vua cũng vậy, tháng 8 năm Nhâm Tý (1732) Trịnh Giang truất Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trang xuống làm quận quân, vu cho nhà vua có tư tình với các cung phi của người khác, Trịnh Giang bắt ép vua ra ở cung riêng. Những thứ cung đốn cho vua dùng đều bị bớt xén đi, rồi truất vua xuống làm Hôn Ðức Công, dời đến một ngôi nhà bên ngoại thành, buộc phải thắt cổ chết vào tháng 9 năm Ất Mão (1735).
Giết vua rồi, Giang cho dẫn 12 người con của Dụ Tông vào phủ đường để xem mặt. Duy Tường là con trưởng đáng được lập làm vua. Giang liền sai viên quan hộ vệ Duy Tường đến cung Tứ Thọ, làm lễ cáo Thái Miếu và lập lên làm vua, tức là vua Thuần Tông.
Duy Tường lên ngôi đổi niên hiệu là Long Ðức, đại xá trong nước, tha bỏ thuế chiếu, tha những tiền nộp để chuộc tội còn thiếu chồng chất; viên quan nào bị lầm lỡ bị truất bãi đã lâu, đều  cho xem xét dừng lại. Nhưng Duy Tường làm vua không được lâu, chỉ bốn năm sau, vua mất, thọ 37 tuổi, quần thần dâng tôn hiệu là Thuần Tông Giản hoàng đế.
 ♦ Lê Ý Tông (1735-1740): 
Niên hiệu: Vĩnh Hựu.
Sau khi Thuần Tông Giản hoàng đế mất, Trịnh Giang cho lập Duy Thận, con thứ 11 của Dụ Tông, em của Thuần Tông lên ngôi. Mặc dù Thuần cũng có con đã 19 tuổi, nhưng Trịnh Giang cho rằng Duy Diên (con Thuần Tông) tuổi đã trưởng thành và nhận thấy Duy Thận là cháu ngoại bà Thái phi họ Vũ (mẹ của Trịnh Cương, bà của Trịnh Giang), trước kia vẫn nuôi nấng Thận ở trong phủ, thân cận yêu thương và có phần dễ kiềm chế hơn. Thế là Giang quyết định cho Duy Thận khi đó 17 tuổi lên nối ngôi. Bầy tôi trong triều không ai dám nói gì cả. Duy Thận lên ngôi lấy niên hiệu là Vĩnh Hựu.
Dưới thời cầm quyền của Trịnh Giang, tình hình trong nước lại mất ổn định. Giang là kẻ vô cùng bạo ngược, không việc gì là không làm: sát hại công thần, tự cho thi tiến sĩ ở phủ đường... giết vua nọ lập vua kia... Vì thế tháng 12 năm Mậu Ngọ (1738) một người tôn thất nhà Lê là Lê Duy Mật và Duy Quý (con Lê Dụ Tông), Duy Chúc (con Hy Tông) cùng một số quần thần bàn mưu đốt kinh thành nhưng việc không thành, họ phải vượt biển chạy vào Thanh Hoá. Giang cho quân đuổi theo nhưng không kịp. Sau vụ đó, Duy Mật bèn chiếm cứ miền thượng du vùng Tây Nam chống nhau với nhà Trịnh ròng rã 30 năm trời.
Từ ngày làm việc bạo nghịch giết vua, Trịnh Giang lấn quyền vua ngày càng quá quắt. Thêm vào đó lại chơi bời dâm dục không còn mức độ nào cả. Vì thế Giang bị mắc chứng bệnh kinh quý, sợ sấm sét. Bọn hoạn quan là Hoàng Công Phụ đánh lừa Giang: chúng đào đất làm cung thưởng trì dưới hầm cho Giang ở. Từ đó Giang không bước chân ra ngoài, Công Phụ cùng đồng đảng của hắn càng có dịp chuyên quyền, lũng đoạn triều chính. Các quan đại thần kế tiếp nhau người bị giết, người bị phạt. Chính sự trái ngược, thuế khoá nặng nề, lòng dân mong chóng nổi lên loạn lạc. Lúc ấy hàng loạt cuộc khởi nghĩa của nhân dân nổ ra ở khắp nơi: Vùng Hải Dương có Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Vũ Trác Oánh, ở vùng Sơn Nam có Hoàng Công Chất... họ đều lấy danh nghĩa “phò Lê”. Dân ở vùng Ðông Nam, người đeo bừa, người vác gậy đi theo, chỗ nhiều đến hơn vạn, chỗ nhỏ cũng hàng ngàn hàng trăm. Quân khởi nghĩa vây các cấp, các thành, triều đình không thể ngăn cấm được.
Trước tình hình đó. Trịnh thái phi là Vũ Thị (vợ Trịnh Cương, mẹ Trịnh Doanh) cho triệu Nguyễn Quý Cảnh và một số quần thần khuyên Trịnh Doanh đứng ra thay Trịnh Giang để trừ hoạn nạn trong cung phủ. Năm Canh Thân (1740) Trịnh Doanh lên thay Trịnh Giang, tháng 5 năm ấy Doanh ép vua truyền ngôi cho Duy Diên, con trưởng của Thuần Tông. Tôn nhà vua lên làm Thái thượng hoàng. Như vậy Ý Tông ở ngôi được 5 năm, khi nhường ngôi mới 21 tuổi. Nhường ngôi rồi Ý Tông đến ở điện Càn Thọ, được 19 năm chết, thọ 40 tuổi.
 ♦ Lê Hiển Tông (1740-1786): 
Niên hiệu: Cảnh Hưng.
Hiển Tông tên thật là Duy Diên, là Thái tử của vua Thuần Tông. Nhưng vì có chú là Du

File đính kèm:

  • doc12 Trịnh Nguyễn phân tranh.doc