Tiểu luận Việc phát triển và sử dụng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa - Hiện đại hóa của Việt Nam hiện nay

Chưa bao giờ trong lịch sử, nhân tố con người lại đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế như thời đại ngày nay. "Máy móc không chỉ thay thế lao động cơ bắp mà còn nhân lên sức mạnh trí tuệ con người, lực lượng sản xuất chuyển từ dựa vào vật chất sang dựa nhiều hơn vào trí lực và sức sáng tạo của con người, sức sáng tạo của con người là vô hạn, tài nguyên là hữu hạn. Cho nên kinh tế dựa vào tri thức mở ra những triển vọng to lớn, những khả năng vô hạn của con người, giải quyết những vấn đề cơ bản và cấp bách mà mình đang phải đối mặt". [Đặng Hữu - Phát triển bền vững dựa trên tri thức - Tạp chí lý luận chính trị/số 11 - 2004. tr 9 - 10]. Việc phát triển và sử dụng nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ đã được Đảng và Nhà nước ta xác định đúng hướng. Trong điều kiện nước ta hiện nay để chiến lược phát triển theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa đến thắng lợi, chúng ta phải lấy nguồn nhân lực con người Việt Nam - nguồn nhân lực quan trọng nhất làm động lực cho sự phát triển lâu bền. Để bồi dưỡng và phát h

Tuy nguồn lực con người Việt Nam với tư cách đó, chúng ta cần tạo ra mối quan hệ hài hóa giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội tạo ra mối quan hệ hài hòa giữa lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, lợi ích quốc gia, dân tộc và lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân không ngừng nâng cao trình độ học vấn cho người lao động mang tầm quốc tế, xây dựng con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa tiên tiến nhưng vẫn luôn coi trọng những giá trị truyền thống văn hóa dân tộc, không đánh mất mình. Từ đó xây dựng và phát triển Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; tạo cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội.

 

doc19 trang | Chia sẻ: Thewendsq8 | Lượt xem: 1652 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Việc phát triển và sử dụng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa - Hiện đại hóa của Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 tố thuộc về chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức vị thế xã hội tạo nên năng lực của người, của cộng đồng người có thể sử dụng, phát huy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và trong những hoạt động xã hội.
Khi ta nói tới nguồn lực con người là ta nói tới con người với tư cách là chủ thể hoạt động sáng tạo tham gia cải tạo tự nhiên, làm biến đổi xã hội.
Trong các nguồn lực có thể khai thác như nguồn lực tự nhiên, nguồn lực khoa học - công nghệ, nguồn lực con người thì nguồn lực con người là quyết định nhất, bởi lẽ những nguồn lực khác chỉ có thể khai thác có hiệu quả khi nguồn lực con người được phát huy. Những nguồn lực khác ngày càng cạn kiệt, ngược lại nguồn lực con người ngày càng đa dạng và phong phú. Xã hội muốn phát triển nhanh và bền vững phải quan tâm đào tạo nguồn lực con người và có chất lượng ngày càng cao. Muốn thực hiện được điều đó, cần có sự quan tâm ngay trong quá trình đào tạo, trong quá trình sử dụng và phân công lao động xã hội.
- Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đây là giai đoạn xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại để tiến lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là ở các nước có điểm xuất phát thấp từ một nền nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Mục tiêu của nước ta trong thời kỳ quá độ là "Xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Để thực hiện được mục tiêu này, việc phát triển và sử dụng nguồn nhân lực để phát triển kinh tế phải được đặt lên hàng đầu.
b. Nhân tố người lao động là nhân tố quyết định trong lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất đó là sự kết hợp của hai yếu tố sức lao động của con người và tư liệu sản xuất.Trong đó "lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động" [V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxơcơva, 1977, t.38, tr.430] chính người lao động là chủ thể của quá trình lịch sử sản xuất, với sức cạnh tranh và kĩ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động mà trước hết là công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của con người ngày càng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người không ngừng phát triển, hàm lượng trí tuệ của lao động ngày càng cao.
Cùng với người lao động thì công cụ thì công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động cũng là sản phẩm do trí tuệ của con người sáng tạo ra. Với quá trình tích lũy kinh nghiệm, với những phát minh và sáng chế kỹ thuật, công cụ lao động không ngừng được cải tiến và hoàn thiện và nó đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất.
Từ sự biến đổi và phát triển của hai yếu tố tư liệu lao động và sức lao động mà lực lượng sản xuất không ngừng phát triển. Suy đến cùng nhân tố người lao động chính là nhân tố quyết định nhất trong lực lượng sản xuất. Ngày nay trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Lao động trí tuệ ngày càng đó vai trò chủ yếu, nó thúc đẩy sản xuất phát triển bằng những ứng dụng thành tựu khoa học vào sản xuất. Yếu tố trí lực trong sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại không còn là thói quan, kinh nghiệm của họ và là tri thức khoa học.
Chủ nghĩa xã hội có được xây dựng thành công hay không, tùy thuộc vào chúng ta có phát huy tốt nguồn lực con người hay không? Khi Việt Nam bước vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã khẳng định "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa".
[Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.10, tr.310]. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xây dựng trên lĩnh vực kinh tế, người lao động đã trở thành người làm chủ đất nước làm chủ trong quá trình tổ chức quản lý sản xuất, từ việc xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh tới tổ chức sản xuất kinh doanh và làm chủ trong quá trình phân phối sản phẩm. Điều đó tạo ra điều kiện để phát huy nguồn lực con người, phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, làm cho đất nước ngày càng giàu đẹp.
II. Việc phát triển và sử dụng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa của Việt Nam hiện nay
1. Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước
a. Công nghiệp hóa - hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Theo quan điểm của Đảng ta xác định công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng khoa học công nghệ tiên tiến hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Công nghiệp hóa ở nước ta có đặc điểm phải gắn liền với hiện đại hóa bởi vì cuộc cách mạng khoa học hiện đại đã và đang diễn ra một số nước phát triển bắt đầu nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Do đó chúng ta cần phải tranh thủ ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, tiếp cận với nền kinh tế tri thức để hiện đại hóa những ngành, những khâu những lĩnh vực có điều kiện nhảy vọt.
ở nước ta công nghiệp hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội; tăng cường sức mạnh để bảo vệ độc lập dân tộc. Mục tiêu tổng quát của sự nghiệp công nghiệp hóa của nước ta được Đảng cộng sản Việt Nam xác định tại Đại hội lần thức VIII và tiếp tục khẳng định tại Đại hội lần thứ IX là "Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa" 
b. Vai trò của nguồn nhân lực đối với quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Theo thống kê của Liên Hợp Quốc đến nay đã có tới 30 nước hoàn thành công nghiệp hóa. Một lợi thế cho những người đi sau là có sẵn vô vàn bài học thành công và thất bại của những người đi trước. Người ta đã tổng kết và kể ra rất nhiều con đường công nghiệp hóa khác nhau: Công nghiệp hóa cổ điển và phi cổ điển.
Công nghiệp hóa cổ điển đây là kiểu công nghiệp hóa mà các nước Tây Âu và Mỹ đã thực hiện ở thế kỷ 18, 19.
- Công nghiệp loại 2: phi cổ điển là của các nước đi sau tiến hành công nghiệp hóa một cách chủ động theo định hướng của Chính phủ. Nước ta đi theo con đường này, và con đường này có xu hướng rút ngắn thời gian hoàn thành.
Nói tới công nghiệp hóa - hiện đại hóa người ta đến vốn và công nghệ hiện đại. Nhưng điều đó chỉ hoàn toàn đúng với con đường công nghiệp hóa cổ điển, kinh nghiệm của các nước công nghiệp hóa con đường thứ hai cho thấy hoàn toàn không phải như vậy mà nhân tố quan trọng nhất chính là con người
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa là con đường duy nhất để phát triển nền kinh tế - xã hội đối với bất cứ quốc gia nào nhất là các nước chậm phát triển và đang phát triển. Trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa, con người - nguồn nhân lực với tư cách là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội. Chính là yếu tố quyết định nhất, động lực cơ bản nhất. Thực tế đã chứng minh nguyên nhân dẫn đến sự thành công của các quốc gia vùng lãnh thổ có nền công nghiệp phát triển ở Châu á. Họ đã có chính sách ưu tiên phát triển giáo dục hợp lý tạo ra nguồn nhân lực có tay nghề, chuyên môn kỹ thuật cao đáp ứng tốt cho công nghiệp hóa. Nếu như công nghiệp hóa của các nước Châu Âu kéo dài gần 100 năm thì các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapo chỉ mất hai ba mươi năm đã xây dựng được một nền công nghiệp hiện đại. Rò ràng nguồn nhân lực trở thành yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng mang tính quyết định nhất đối với sự phồn thịnh của quốc gia.
Đảng ta xác định nhân tố con người chính xác là vốn con người, vốn nhân lực bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống của dân tộc là vốn quý nhất, quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì thế giải phóng tiềm năng con người, để phát huy tối đa nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa là một trong những quan điểm đổi mới có tính đột phá trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới. Con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng đã được Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 - Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII xác định xây dựng với những đức tính "Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật sáng tạo, năng suất cao. Vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội, thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực".
2. Tính tất yếu khách quan phải phát triển và sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả ở nước ta hiện nay
a. Yêu cầu ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ điều kiện một nền kinh tế thấp kém, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Dù miền Bắc đã có hơn 50 năm và cả nước đã có trên 30 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng một phần lớn thời gian vẫn là tình trạng "một chủ nghĩa xã hội thời chiến". Bên cạnh thành tựu to lớn phục vụ cho công cuộc kháng chiến và bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật thì chúng ta cũng mắc phải những khuyết điểm nghiêm trọng trong tổ chức quản lý, những năm 80 lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Sau 20 năm đổi mới nền kinh tế đã có những thay đổi quan trọng, đã tương đối ổn định và phát triển tạo nên thế và lực mới của cách mạng nước ta, nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế. Tuy nhiên, trình độ lực lượng sản xuất kém phát triển đang còn là cản trở chủ yếu của việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mà quan hệ sản xuất này vốn mang bản chất xây dựng hoá nền sản xuất xã hội. Người lao động yếu tố động nhất, quyết định nhất của lực lượng sản xuất vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
Dân số nước ta thuộc loại dân số trẻ, tốc độ gia tăng dân số cao, số người trong độ tuổi lao động lớ

File đính kèm:

  • docT101.doc
Giáo án liên quan