Tiểu luận Ý thức và vai trò của ý thức trong đời sống xã hội

Như chúng ta đã biết, thực ra sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô cũ và Đông Âu là do diễn giải sai chủ nghĩa Mác - Lênin. Tức là nhận thức sai về chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là về nhữgn bước đi về quan điểm hay làm quá nhanh, sự sụp đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là một trong những sự biến kịch tính nhất trong thế kỷ XX. Cũng từ đó, trật tự thế giới lưỡng cực tan vỡ và thế giới bước vào một trật tự chính trị, không gian chiến lược hoàn toàn khác trong hơn 100 năm qua gươngmặt thế giới rạng ngời và cũng đau đớn hai cuộc chiến tranh đại chiến (I, II) và hàng nghìn cuộc chiến tranh xung đột lớn nhỏ đủ dạng, đủ mọi nguy cơ làm cho 150 triệu người chế quyền lực, súng đạn, đất đai, đô la,l dầu lửa, nhân quyền. làm cho cả thế giới luôno vật vã, phập phồng, bất ổn.

Việt Nam cũng là quốc gia chịu nhiều ảnh hưởng những cuộc chiến tranh áp bức bóc lột đồng thời chịu ảnh hưởng nặng nề của chế độ phong kiến đô hộ, cho nên để có kinh tế phát triển sánh với quốc gia thế giới.

 

doc15 trang | Chia sẻ: Thewendsq8 | Lượt xem: 6851 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Ý thức và vai trò của ý thức trong đời sống xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lại, con người có ý thức chính vì con người chủ động tác động vào thế giới thông qua hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới. Con người chỉ có ý thức do có tác động vào thế giới. Nói cách khác, ý thức chỉ được hình thành thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ tác động vào thế giới mà con người khám phá ra những bí mật của thế giới, ngày càng làm phong phú và sâu sắc ý thức của mình về thế giới.
Trong quá trình lao động, ở con người xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh nghiệm cho nhau. Chính nhu cầu đó đòi hỏi sự xuất hiện của ngôn ngữ. Ph.Ăngghen viết: “Đem so sánh con người với các loài vật, người ta sẽ thấy rõ rằng ngôn ngữ bắt nguồn từ trong lao động và cùng phát triển với lao động,l đó là cách giải thích duy nhất đúng về nguồn gốc của ngôn ngữ”.
Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ vào lao động mà hình thành. Nó là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có hệ thống tín hiệu này - tức ngôn ngữ, thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ, theo C.Mác là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, không có ngôn ngữ, con người không thể có ý thức. Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp đồng thời là công cụ của tư duy. Nhờ ngôn ngữ con người mới có thể khái quát hoá, trừu tượng hoá, mới có thể suy nghĩ, tách khỏi sự vật cảm tính. Nhờ ngôn ngữ, kinh nghiệm, hiểu biết của người này được truyền cho người kia, thế hệ này cho thế hệ khác. ý thức không phải là hiện tượng thuần tuý cá nhân mà là một hiện tượng có tính chất xã hội, do đó không có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được. Như vậy, ngôn ngữ là yếu tố quan trọng để phát triển tâm lý, tư duy và văn hoá con người, xã hội loài người nói chung. Vì thế Ph. Ăngghen viết: “sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ... đó là hai sức kích thích chủ yếu” của sự chuyển biến bộ não của con người, tâm lý động vật thành ý thức.
2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
a. ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội.
ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội àa do những nguyên nhân sau đây: 
- Một là, do bản thân ý thức vốn là cái phản ánh tồn tại xã hội. Sự biến đổi của tồn tại xã hội thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội cho nên nó chỉ biến đổi sau khi tồn tại xã hội đã biến đổi.
- Hai là, do tính chất bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội cụ thể và những tư tưởng chứa đựng trong các hình thái đó (thí dụ tư tưởng tôn giáo, những quan niệm và chuẩn mục đạo đức, những tập tục v.v...).
- Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
b. ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển .
Quan điểm của triết học Mác - Lênin về tính kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá tinh thần của xã hội.
Lênin viết: “Văn học vô sản phải là sự phát triển lôgích của tổng số kiến thức mà loài người đã tích luỹ được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu”.
Chúng ta khẳng định: Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế phải đặc biệt quan tâm gìn giữ và nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc, tiếp thu tinh hoa các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hoá Việt Nam.
c. ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội.
Ăngghen viết:” Sự phát triển về chính trị, phát luật, triết học, tôn giáo, văn hoá, nghệ thuật v.v... dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cdả những sự phát triển đó đều tác động lẫn nhau và cùng tác động đến cơ sở kinh tế”.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể: vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng; vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng trong quần chúng. Cũng do đó ở đây cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những đối lập với chủ nghĩa duy tâm trong sự tuyệt đối hoá vai trò của ý thức xã hội, mà còn bác bỏ cả quan điểm của chủ nghĩa duy vật tàm thường (hay chủ nghĩa duy kinh tế) phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội.
Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội và của đời sống tinh thần xã hội nói chung, bác bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
II. Vai trò của ý thức trong đời sống xã hội.
Nhận thấy ý thức con người được phản ánh thông qua những tình thái ý thức xã hội, mà những tình thái đó có tác động trực tiếp tới đời sống xã hội con người. Đặc biệt trong vấn đề về tư tưởng chính trị pháp quyền - tình cảm - tri thức... vì vậy ta hãy xét tới sự tác động hay vai trò những tình thái ý thức xã hội này trong đời sống xã hội con người.
1. Tư tưởng chính trị và pháp quyền.
Tình thái ý thức chính trị xuất hiện trong xã hội có giai cấp và nhà nước nó phản ánh các quan hẹe chính trị, kinh tế xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia. Nó thể hiện thái độ các giai cấp đối với quyền lực nhà nước. 
Chiến tranh vùng vịnh, chiến tranh cô xô vô nổ ra cùng tới một con kịch phát chưa từng có của chủ nghĩa hẹp hòi, tôn giáo cực đoan lan tràn khắp nơi và rồi ánh bình mình của thế kỷ XXI đã nhuốm màu bạo lực với sự kiện ngày 11 -9 -2001 và tiếp nối ngay sau đó là cuộc chiến tranh Atgamixtan cuộc chiến tranh Mỹ sắp giáng xuống đầu nhân dân I rắc không chỉ và vấn đền quan hệ song tương giữa một quốc gia dầu lửa bị xếp vào “trục ma quy” với siêu cường duy nhất trên thế giới mà còn là vấn đề thế giới đang phải đối đầu với chủ nghĩa đơn thương độc đoán Mỹ.
Đã từ lâu Mỹ và một số quốc gia trên luôn đặt thế giới vào tâm trạng phập phồng bất an. Nhưng Mỹ và các quốc gia đó không nhận thức được hậu quả hay do cố tình không nhận thấy được hậu quả tất yếu mà Mỹ và các quốc gia đó do áp đặt quân sự và các chính sách kinh tế khác, trên các quốc gia (như GHDCND Triều Tiên, Irắc, Afganixtan).
“135 lịch sử kinh hoàng nước Mỹ 11 / 9 /01 đã làm chấn động địa cầu. Và câu hỏi đặt ra là nguyên nhận thảm hoạ này do đâu? Hậu quả để lại sau thảm hoạ trở thành những nguyên nhân của những sự biến mới trên trường quốc tế là gì?
Hành động tiến công của những tên không tặc khủng bố nhằm vào nước Mỹ có phải là điều tất nhiên? Và những đòn tấn công đó vào nước Mỹ thông qua những cái ngẫu nhiên. Mỹ đã bất chấp những cái tồn tại khách quan luôn phá vỡ những quy ước chung và hành động theo ý thức thuộc cái riêng mà mình muốn. Và cuộc khủng bố nổ ra lẽ đương nhiên là lời cảnh báo buộc Mỹ phải xem xét lại chính mình về mọi mặt chính trị, quân sự ngoại giao. Mỹ nên tôn trọng những hiệp định chung đã được thoả thuận trong các tổ chức mang tính quốc tế như Liên hợp quốc và liệu rằng những đòn trả đũa của Mỹ đánh vào Irắc có thêm một lần phạm phải sai lầm chủ quan nữa chăng.
2. Hình thái ý thức trong đạo đức - phong tục - tập quán
a) Sự tự ý thức về lương tâm, danh dự và lòng tự trọng, v.v.. phản ánh khả năng tự chủ của con người, là sức mạnh đặc biệt của đạo đức, là nét cơ bản biểu hiện cái thiện trong con người, và cũng là biểu hiện tố chất nhân văn của con người. Với ý nghĩa đó, ý thức đạo đức là nhân tố quan trọng của tiến bộ xã hội, của sự nhân đạo hoá xã hội. Và cũng do đó, các quan niệm về thiện và ác, về hạnh phúc, công bằng, lương tâm, danh dự, lòng tự trọng trở thành những giá trị phổ biến nhất của ý thức đạo đức trong đời sống văn hoá tinh thần của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng.
b) Trong tiến trình phát triển của xã hội đã hình thành những giá trị đạo đức mang tính toàn nhân loại, tồn tại trong mọi xã hội và trong các hệ thống đạo đức khác nhau, có tác dụng điều chỉnh hành vi của mọi người, nhằm giữ gìn trật tự xã hội chung và sinh hoạt thường ngày của từng cá nhân và cộng đồng bất kể họ thuộc giai cấp nào, dân tộc nào, quốc gia nào.
c) Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp đối kháng thì nội dung của đạo đức bị chi phối bởi nội dung giai cấp. Trong nội dung của các phạm trù đạo đức luôn luôn phản ánh địa vị và lợi ích của giai cấp. Mỗi giai cấp trong những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội đều tạo ra những quan điểm đạo đức riêng của mình. Giai cấp tiêu biểu cho xu thế phát triển đi lên của xã hội thì đại diện cho một nền đạo đức tiến bộ. Còn các giai cấp đã rời khỏi vũ đại lịch sử thì đại diện cho một nền đạo đức suy thoái. Ph.Ănghen viết: “Chung quy lại thì mọi thuyết đạo đức đã có từ trước tới nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ. Và cũng như xã hội cho tới nay đã phát triển trong sự đối lập giai cấp, đạo đức luôn luôn là đạo đức của giai cấp. Cho nên hoặc giả nó bênh vực sự thống trị và lợi ích của giai cấp thống trị, hoặc giả, khi giai cấp bị trị đã trở nên khá mạnh, thì nó tiêu biểu cho sự nổi dậy chống kẻ thống trị, hoặc giả, khi giai cấp bị trị đã trở nên khá mạnh, thì nó tiêu biểu cho sự nổi dậy chống kẻ thống trị và biểu cho lợi ích tương laicủa những người bị áp bức”.
Hiện nay ở một số nước tư bản phương Tây đang lưu hành một quan niệm sai lầm cho rằng trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã xuất hiện một kiểu đạo đức mới không có tính giai cấp. Trong đó, người ta đặc biệt nhấn mạnh đến đạo đức tôn giáo như một thứ đạo đức duy nhất có khả năng chỉ ra cho toàn thể loài người con đường phát triển đi lên.
d. Trong lịch sử phát triển của đạo đức các giá trị phổ biến của nó đã không ngừng được tạo ra và hoàn thiện. Tuy nhiên, chỉ trong đạo đức cộng sản các giá trị đó mới có khả năng thể hiện đầy đủ nhất.
Đạo đức cộng sản đượ

File đính kèm:

  • docT037.doc