Tiểu luận Vấn đề triết học về con người và con người trong quá trình đổi mới hiện nay

Ngày nay, với cuộc cách mạng kỹ thuật công nghệ hiện đại, đã dần dần đi đến khẳng định sự phát triển con người là yếu tố quyết định của mọi sự phát triển. Trong sự phát triển con người đặc biệt nhấn mạnh vai trò của trí tuệ và đi liền với nó là vai trò của giáo dục đào tạo nguồn lực con người.

Đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta phải coi nhân tố con người là nhân tố quyết định, từ đó phải nâng cao dân trí cũng như chuẩn bị tốt nguồn nhân lực có đủ trí tuệ và nghị lực, tay nghề và công nghệ, ý thức và tâm hồn thấm đượm sâu bản sắc dân tộc, khoa học và ý chí, thực hiện sự chuyển mình từ một xã hội nông nghiệp thành xã hội công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các cuộc đại thắng của dân đã đi vào lịch sử suy cho cùng là thắng lợi của chính con người Việt Nam. Bài học đó còn nguyên giá trị cho tới ngày nay. Với chiến lược giáo dục đào tạo đúng đắn và khoa học của Đảng, với trí tuệ và phẩm chất của con người Việt Nam, chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

 

doc18 trang | Chia sẻ: Thewendsq8 | Lượt xem: 1573 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vấn đề triết học về con người và con người trong quá trình đổi mới hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 có nhân cách.
- Cá nhân được hình thành và phát triển chỉ trong quan hệ xã hội. Nhưng xã hội thay đổi theo tiến trình lịch sử cá nhân là một hiện tượng có tính lịch sử. Mỗi thời kỳ lịch sử có một "kiểu xã hội của cá nhân" mang tính định hướng về thế giới quan, phương pháp luận cho hoạt động của con người trong thời kỳ lịch sử cụ thể đó.
Nếu như cá nhân là khái niệm phân biệt sự khác nhau giữa cá thể với giống loài, sự khác biệt biểu hiện ra bên ngoài của cá nhân này với cá nhân khác thì nhân cách là khái niệm để chỉ sự khác biệt những yếu tố bên trong riêng biệt với toàn bộ hoạt động sống của nó, của cá nhân này với cá nhân khác. Nhân cách là nội dung, trạng thái, tính chất, xu hướng bên trong riêng biệt của mỗi cá nhân. Đó là thế giới của "cái tôi" do tác động tổng hợp của các yếu tố cơ thể và xã hội riêng biệt tạo nên. Mỗi cá nhân "dấn thân" vào cuọc sống, tiếp thu và chuyển những giá trị văn hoá của xã hội vào bên trong mình, thực hiện quá trình so sánh lọc bỏ, tự đánh giá, tự tạo nên thế giới riêng của mình. Đâylà quá trình kép, xã hội hoá cá nhân và cá nhân hoá xã hội, cá nhân xã họi và cá nhân nhân cách là thống nhất. Với nhân cách riêng, mỗi cá nhân có khả năng ý thức về mình, làm chủ cuộc sống của mình, tự lựa chọn chức năng, niềm vui và trách nhiệm hoạt động cụ thể trong xã hội.
Vấn đề cá nhân, nhân cách không giải quyết một cách khoa học nếu không có phương hướng triết học rõ ràng giải quyết mối quan hệ cá nhân và xã hội. Mối quan hệ này được giải quyết liên tiếp thông qua tập thể cơ sở. Nó tạo thành một bộ phận hết sức quan trọng của một cơ thể xã hội hoàn chỉnh. Cá nhân có nhân cách gia nhập vào tập thể như là bộ phận của cái toàn thể, thể hiện bản sắc của mình thông qua hoạt động tập thể, nhưng không "hoà tan" vào tập thể. Đây là mối quan hệ biện chứng bao hàm mẫu thuẫn cá nhân và tập thể. Tuỳ theo tính chất và khả năng giải quyết những mâu thuẫn đó mà mối quan hệ này có thể duy trì phát triển hoặc tan rã.
Mối quan hệ cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện chứng, tác động nhau, trong đó xã hội giữ vai trò quyết định. Nền tảng của quan hệ này là quan hệ lợi ích. Thực chất của việc tổ chức trật tự xã hội là sắp xếp các quan hệ lợi ích sao cho khách thác được cao nhất khả năng của mỗi thành viên vào các quá trình kinh tế, xã hội và thúc đẩy quá trình phát triển lên trình độ cao hơn. Xã hội là điều kiện, là môi trường, là phương thức để lợi ích cá nhân được thực hiện. Cá nhân không chỉ là sản phẩm của xã hội mà còn là chủ thể của sự phát triển xã hội, của hoạt động sản xuất và hoạt động xã hội khác. Với tư cách là chủ thể của lịch sử, cá nhân hành động không phải riêng rẽ mà với tư cách là một bộ phận của tập thể xã hội (gia đình, giai cấp, dân tộc, nhân dân). Nhân dân là cộng đồng lớn nhất, trong đó cá nhân hành động như chủ thể lịch sử. Cá nhân chỉ được hình thành phát triển trong xã hội, trong tập thể. Sự tác động cá nhân và xã hội mang hình thức đặc thù tuỳ thuộc vào các chế độ xã hội và trình độ văn minh khác nhau.
Lịch sử phát triển của loài người là lịch sử đấu tranh để giành tự do ngày càng cao. Trong các xã hội có giai cấp đối kháng, tự do của người này được thực hiện bằng cách tước đoạt tự do của người khác. Tự do cá nhân của giai cấp thống trị được đảm bảo bằng cách tước đoạt tự do của giai cấp bị trị. Cho nên, quá trình đấu tranh của giai cấp và quần chúng lao động là quá trình giành tự do của họ đã bị giai cấp thống trị cướp đoạt. Tự do của con người không tách rời những điều kiện xã hội, không tách rời trình độ của con người chinh phục thiên nhiên. Chỉ đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản con người mới thực sự có tự do. ở đây, tất cả những vấn đề về lực lượng sản xuất, quan hệ kinh tế, hệ thống chính trị, đấu tranh giai cấp đều được thực hiện theo mục đích phát triển tối đa năng lực con người và vì con người. Trước đây C.Mác và Ph. Ănghen đã chỉ ra rằng, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc, và "sản xuất vật chất đã như thế thì sản xuất tinh thần cũng không kém như thế". Chủ nghĩa tư bản hiện đại đang đẩy mạnh quá trình này, nhưng về thực chất đó vẫn là sự mở rộng quan hệ bóc lột và nô dịch con người sang các dân tộc khác. Nó tạo ra một số nước tư bản phát triển cao, giàu có, thì đồng thời cũng làm cho châu Phi đói, châu á nghèo, châu Mỹ Latinh nợ nần chồng chất.
Chủ nghĩa xã hội thực hiện quá trình quốc tế hoá đời sống nhân loại để mỗi dân tộc có điều kiện tiếp cận nhanh chóng những giá trị tiến bộ của nhân loại, làm cho con người phát triển nhân cách phong phú, biết đấu tranh chống những quan hệ không có tính người trong cuộc sống nhân loại. Đó là đặc trưng của chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
3. Cá nhân và quần chúng nhân dân trong lịch sử
Lịch sử chẳng qua là hoạt động của con người theo đuổi mục đích của mình. Nhưng lịch sử không diễn ra qua hoạt động của từng cá nhân cô lập, tách rời mà phải thông qua hoạt động của quần chúng đông đảo theo những mục đích nhất định. Khái niệm quần chúng nhân dân có tính lịch sử, nghĩa là ở các chế độ xã hội khác nhau thì kết cấu quần chúng nhân dân cũng khác nhau và luôn luôn biến đổi theo sự phát triển của phương thức sản xuất. Nói chung, quần chúng nhân dân bao gồm tất cả những lực lượng, giai cấp, những tập đoàn, những cá nhân thúc đẩy sự phát triển của xã hội, trong đó chủ yếu là quần chúng lao động.
Trước Mác, triết học duy tâm và duy vật đều hiểu không đúng đắn vai trò của quần chúng nhân dân và mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử.
Tư tưởng tôn giáo cho rằng, mọi sự thay đổi trong xã hội là do ý chí của đấng tối cao, là do "mặt trời", ý chí đó được các cá nhân thực hiện. Triết học duy tâm cho rằng lịch sử nhân loại là lịch sử của các bậc vua chúa, anh hùng hào kiệt, thiên tài lỗi lạc. Còn quần chúng nhân dân chỉ là "lực lượng tiêu cực", là "phương tiện" mà các vĩ nhân cần đến để đạt mục đích của mình.
Các nhà duy vật trước Mác tuy không tin vào Thượng đế, thần linh, nhưng lại cho rằng nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội là đạo đức, tư tưởng, là các vĩ nhân sớm nhận thức được chân lý vĩnh cửu.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử vì những lý do sau:
- Tư tưởng tự nó không dẫn đến biến đổi xã hội. Tư tưởng chỉ có giá trị khi nó dẫn đến hành động làm biến đổi lịch sử, sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động làm phát triển xã hội chỉ có thể xảy ra qua hoạt động của quần chúng nhân dân. Sức mạnh quần chúng nhân dân là sức mạnh vật chất và mọi sự vận động lịch sử đều do quần chúng trực tiếp tạo ra. Nói quần chúng nhân dân quyết định lịch sử là nói tới sức mạnh này.
- Quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Cách mạng là ngày hội của quần chúng, là sự nghiệp của quần chúng. Cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động là động lực phát triển của xã hội.
- Quần chúng nhân dân là người đóng vai trò to lớn trong sự phát triển văn hoá, nghệ thuật và khoa học. Trong lịch sử, do sự phân công lao động dẫn đến tạo ra một lớp người chuyên về sáng tạo tinh thần tư tưởng, những hoạt động này của họ cũng chỉ diễn ra được trên cơ sở đời sống tinh thần và sáng tạo của quần chúng. Quần chúng nhân dân là người trực tiếp sáng tạo ra văn học nghệ thuật. Hoạt động thực tiễn của quần chúng là cái gốc, là nguồn vô tận cho văn học nghệ thuật sáng tạo, đồng thời quần chúng nhân dân còn là người thưởng thức, phê phán, kiểm nghiệm các giá trị đó. Trong lịch sử phát triển của xã hội, không có văn học dân gian thì cũng không thể có văn học bác học, không có kinh nghiệm của đa số người lao động thì cũng không có các khoa học. Đây là hai mặt không thể tách rời của đời sống tinh thần trong xã hội.
- Hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân là cái nôi, là cơ sở cho sự hình thành các nhân vật ưu tú của xã hội. Sức mạnh và tài năng của lãnh tụ cũng chỉ được phát huy trong phong trào quần chúng, gắn bó mật thiết với quần chúng. Một nhân dân anh hùng, một đại chúng cách mạng năng động sẽ là cơ sở để sản sinh ra những anh hùng, những lãnh tụ tiêu biểu của mình.
Như vậy, xét tất cả các mặt trong đời sống xã họi từ kinh tế đến chính trị, từ thực tiễn đến tinh thần tư tưởng, khi quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định lịch sử. Song, theo quan niệm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ trong lịch sử không tách rời nhau. Cá nhân lãnh tụ là những người có năng lực và phẩm chất tiêu biểu nhất trong phong trào quần chúng, được quần chúng tin yêu. Vai trò to lớn của họ trong quá trình phát triển lịch sử được thể hiện ở những điểm sau:
- Lãnh tụ là người đúc kết trí tuệ, nhu cầu nguyện vọng của quần chúng để định hướng cho hoạt động của quần chúng. Cá nhân ưu tú là con đẻ của quần chúng và chỉ có những cá nhân như thế mới "sống mãi" với lịch sử.
- Lãnh tụ do có trình độ nhận thức cao, họ nhìn xa trông rộng, thấy được xu hướng tất yếu khách quan của lịch sử, từ đó, họ đưa ra những dự đoán khoa học thiên tài và chủ động tổ chức quần chúng hoạt động thống nhất tiếp nhận và thực hiện xu hướng lịch sử đó.
- Lãnh tụ là người giáo dục, thức tỉnh, tổ chức, tập hợp quần chúng đấu tranh, hướng phong trào qua những khó khăn, đưa phát triển phát triển nhanh chóng. Và, quần chúng chuyển hoạt động từ tự phát sang tự giác, từ kinh nghiệm sang khoa học, từ phân tán sang có tổ chức thống nhất, từ nhu cầu hàng ngày sang biến đổi lịch sử phải qua mất khâu trung gian là hoạt động khái quát tư tưởng và tổ chức lãnh đạo của các cá nhân lãnh tụ, đại diện cho lợi ích quần chúng. Họ không phải là người đứng bên ngoài, hay bên trên quần chúng mà là sản phẩm, là một nhân tố tự nhiên của phong trào quần chúng, sống và phát triển phụ thuộc vào sự chấp nhận tín nhiệm của quần chúng.
Chủ nghĩa Mác LêNin đánh giá cao vai trò của cá nhân lãnh tụ trong sự phát triển của lịch sử, đồng thời kiên quyết chống tệ sùng bái cá nhân. Tệ sùng bái cá nhân là thần thánh hoá cá nhân, lãnh đạo, đi đến chỗ chỉ thấy vai trò của cá nhâ

File đính kèm:

  • docCO NGUOI 3.doc