Tiểu luận Tín dụng: cơ sở lí luận và thực tiễn ở Việt Nam

 Hoạt động tín dụng có vai trò hết sức quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế. Vì vậy việc mở rộng và phát triển tín dụng là tất yếu khách quan. để tạo nguồn vốnphục vụ đầu tư phát triển,công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam cần tiếp tục hoàn chỉnh đưa vào hoạt động các thị trường tiền tệ (như thị trường liên ngân hàng; thị trường đấu giá tín phiếu kho bạc); và cùng với các ngành đưa vào hoạt động thị trường chứng khoán trong thập kỷ này. Thực hiện chính sách huy động vốn và cho vay vốn tích cực, mạnh mẽ vừa đảm bảo về khối lượng vừa chú trọng hiệu quả chất lượng sử dụng vốn đảm bảo khả năng hoàn trả. Về việc huy động vốn, trước hết, cần khẳng định rằng trong điều kiện thu nhập bình quân theo đầu người còn thấp như hiện nay, khả năng tiết kiệm của nhân dân nhìn chung hạn hẹp. Bằng các hình thức huy động tiết kiệm phong phú với lãi suất khá cao hiện nay, hệ thống ngân hàng đã thu hút được phần lớn tiền nhàn rỗi trong dân cư ( tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng đã chiếm tới 65% tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế). Để nền kinh tế có tăng trưởng cao, tín dụng ngân hàng cần được mở rộng đáp ứng các nhu cầu vay vốn có hiệu quả với phương châm không để các dự án đầu tư có hiệu quả cao bị thiếu vốn. Cơ cấu tín dụng cần tiếp tục chuyển dịch có lợi cho đầu tư phát triển, tăng cường cho vay trung và dài hạn. Không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng, giảm tỉ lệ nợ quá hạn và nợ khó đòi xuống mức lành mạnh theo tiêu chuẩn quốc tế, tăng vòng quay và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của xã hội. Tiếp tục mở rộng đối tượng cho vay đến cả các thành phần kinh tế, chú ý thích đáng việc cho vay đối với nông dân và các đối tượng chính sách, mở rộng các hoạt động dịch vụ và phục vụ của hệ thống ngân hàng thương mại, góp phần khuyến khích phát triển kinh tế đồng đều giữa các vùng, địa phương.

 

doc15 trang | Chia sẻ: Thewendsq8 | Lượt xem: 3263 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tín dụng: cơ sở lí luận và thực tiễn ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 các nhà kinh tế đã có nhiều định nghĩa khác nhau về tín dụng nhưng đều phản ánh một bên là đi vay và một bên là cho vay, nó dựa trên cơ sở của lòng tin. Lòng tin được thể hiện trên khía cạnh: người cho vay tin tưởng người đi vay sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả và là quan hệ có thời hạn, có hoàn trả. Đây là bản chất của tín dụng.
	1.4. Vai trò của tín dụng trong nền kinh tế thị trường:
 	- Tín dụng góp phần đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra thường xuyên, liên tục.
 	Do tính đa dạng trong luân chuyển vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, tại một thời điểm nhất định trong nền kinh tế có một số doanh nghiệp “thừa vốn” tạm thời do bán hàng hoá có tiền nhưng chưa có nhu cầu sử dụng ngay( như chưa trả lương cho công nhân viên...) đã làm nảy sinh nhu cầu cho vay vốn để trách tình trạng ứa đọng vốn và có thêm lợi nhuận.Trong khi đó có những doanh nghiệp thiếu vốn tạm thời do hàng háo chưa bán được, nhưng lại có nhu cầu mua nguyên vật liệu, thanh toán tiền lương... làm nảy sinh nhu cầu đi vay để duy trì sản xuất kinh doanh mang lại lợi nhuận. Tín dụng với việc cung cấp tín dụng cho vay kịp thời, đã tạo khả năng đảm bảo tính liên tục của quá trình sản xuất kinh doanh,cho phép các doanh nghiệp thoả mãn nhu cầu về vốn luôn thay đổi và không để tồn đọng vốn trong quá trình luân chuyển.
 	- Tín dụng góp phần tích tụ, tập trung vốn thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
 	Tập trung vốn phải dựa trên cơ sở tích luỹ. Trong thực tế, có những lượng tích luỹ rất lớn được nắm giữ ở các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Nhưng rất nhiều người tích luỹ không muốn cho vay trực tiếp hoặc không muốn có cổ phần trong các dự án đầu tư vì ngoài lí do mất khả năng thanh khoản thì người tích luỹ còn bị hạn chế bởi khả năng, kiến thức về tài chính và pháp lí để thực hiện trực tiếp đầu tư hoặc cho vay. Với hoạt động của hệ thống tín dụng có đủ độ tin cậy, do tính chuyên môn hoá cao trong hoạt động tín dụng và đa dạng hoá các doanh mục đầu tư thông qua nhiều nhà đầu tư của nhiều dự án khác nhau vay, từ đó làm giảm bớt rủi do cá nhân của những người tích luỹ, tạo nên quá trình tập trung vốn được thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả đã tạo khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế, đặc biệt là nguồn vốn dài hạn các doanh nghiệp, các nhà đầu tư nhờ nguồn vốn tín dụng có thể nhanh chóng mở rộng sản xuất, thực hiện các dự án đầu tư tạo những bước nhảy vọt về năng lực sản xuất do tiếp cận được với phương tiện máy móc hiện đại, từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển.
 	- Tín dụng góp phần điều chỉnh ổn định và tăng trưởng kinh tế.
 	Trong nền kinh tế thị trường, các nhà đầu tư thường chỉ tập trung vốn đầu tư vào các lĩnh vực có lợi nhuận cao, trong khi đó, nền kinh tế đòi hỏi phải có sự phát triển cân đối, đồng bộ giữa các ngành và các vùng, yêu cầu phải có những ngành then chốt, mũi nhọn để tạo đà cho nền kinh tế phát triển nhanh chóng.
 	Tín dụng thông qua cung cấp vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn đầy đủ, kịp thời với lãi suất và điều kiện cho vay ưu đãi, có vai trò quan trọng trong việcgóp phần đảm bảo vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng, hình thành các ngành then chốt, mũi nhọn và các vùng kinh tế trọng điểm góp phần hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu. Chẳng hạn, với ưu đãi về vốn, lãi suất, thời hạn và điều kiện vay vốn với nông nghiệp , nông thôn để xây dựng cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng, tín dụng góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
 	Tín dụng còn là phương tiện để nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ thích hợp để ổn định nền kinh tế khi nền kinh tế có dấu hiệu bất ổn. Chẳng hạn như khi nền kinh tế phát triển chậm, sản xuất đình trệ, nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ “nới lỏng”, ngân hàng trung ương thực hiện mua các chứng khoán của các ngân hàng thương mại, tạo áp lực giảm lãi suất dẫn đến chi phí vay vốn giảm, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ngược lại. Hơn nữa, với sự tham gia của tín dụng thông qua dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt đã giảm chi phí lưu thông và an toàn trong thanh toán.
 	- Tín dụng góp phần nâng cao đời sống của nhân dân và thực hiện các chính sách xã hội khác của nhà nước.
 	Với các hình thức tín dụng, cơ chế và lãi suất thích hợp tín dụng đã góp phần nâng cao đời sống của nhân dân ngay cả khi thu nhập còn hạn chế.
 	Thông qua các ưu đãi về vốn, lãi suất, điều kiện và thời hạn vay đối với người nghèo và các đối tượng chính sách, tín dụng đã đóng vai trò quan trọng nhằm thực hiện các chính sách việc làm, dân số và các chương trình xoá đói giảm nghèo, đảm bảo công bằng xã hội.
 	- Tín dụng góp phần mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế
 	Hoạt động tín dụng không chỉ bó hẹp trong nền kinh tế của một quốc gia, mà còn mở rộng trên phạm vi quốc tế. Trong điều kiện kinh tế mở, vay nợ nước ngoài ngày nay trở thành một nhu cầu khách quan đối với tất cả các nước trên thế giới, nó lại càng tỏ ra bức thiết hơn đối với các nước đang phát triển. Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển khác, là nước nghèo, tích luỹ trong nước còn hạn chế, trong khi cần lượng vốn rất lớn để phát triển kinh tế. Nhờ có tín dụng, các nước có thể mua hàng hoá, nhập khẩu máy móc, thiết bị...và tiếp cận với những thành tựu khoa học kĩ thuật mới cũng như trình độ quản lý tiên tiến trên thế giới. Việc cấp tín dụng của các nước không chỉ mở rộng và phát triển quan hệ ngoại thương, mà còn tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế ở các nước nhập khẩu. Tín dụng đã tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư quốc tế trực tiếp – một hình thức hợp tác kinh tế ở mức độ cao hơn.
	1.5. Một số hình thức tín dụng chủ yếu
 	- Tín dụng thương mại: Là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh nghệp với nhau và được biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá. Người bán chuyển hàng hoá cho người mua, người mua được sử dụng hàng hoá trong một thời gian nhất định. Đến hạn nhất định người mua phải trả tiền cho người bán thông thường bao gồm cả lãi suất. Trong trường hợp này người mua không được hưởng chiết khấu bán hàng. Cơ sở pháp lí để xác định nợ trong quan hệ tín dụng thương mại là các giấy nợ.
 	Do có tín dụng thương mại nên đã đáp ứng được nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp tạm thời thiếu vốn trong thời hạn ngắn, giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá, các chủ doanh nghiệp khai thác được nguồn vốn đáp ứng kịp thời cho sản xuất kinh doanh.
 	Tuy nhiên tín dụng thương mại cũng có những hạn chế nhất định. Thứ nhất là hạn chế về quy mô tín dụng. Nếu người cần vốn có nhu cầu cao thì người bán không thể đáp ứng được. Thứ hai là hạn chế về thời hạn cho vay, thời hạn cho vay thường là ngắn. Ba là hạn chế về số lượng người tham gia. Chỉ có một số doanh nghiệp nhất định tham gia vào hình thức này. Đó là những doanh nghiệp cần hàng hoá dự trữ để đưa vào sản xuất ngay, những doanh nghiệp cần tiêu thụ hàng hóa. Bốn là chỉ thực hiện được trên cơ sở tín nhiệm lẫn nhau.
 	- Tín dụng ngân hàng: Là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng với các chủ thể xã hội.
 	Trong quan hệ tín dụng ngân hàng vừa là người đi vay vừa là người cho vay ngân hàng là môi giơí trung gian giữa người có vốn và người cần vốn. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh tập thể, Hoạt động tín dụng là hoạt động dựa trên những nguyên tắc cho vay nhất định. Nguyên tắc cơ bản là cho vay phải có hàng hoá tương đương đảm bảo như có tài sản thế chấp hoặc phải có giấy tờ tín chấp. Cho vay phải hoàn trả đúng hạn cả vốn và lãi. Tín dụng ngân hàng được cung cấp dưới hình thức tập thể bao gồm: thương mại và bút tệ trong đó chủ yếu là bút tệ. Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân và có quan hệ chặt chẽ với tín dụng thương mại, bổ sung và hỗ trợ cho tín dụng thương mại. Các thương phiếu trong lĩnh vực thương mại được thanh toán qua ngân hàng. Nếu người trả không có tiền thì được ngân hàng cho vay. Như vậy tín dụng ngân hàng đã tạo cơ sở cho tín dụng ngân hàng hoạt động. Ngược lại hoạt động của tín dụng ngân hàng sẽ khắc phục được những hạn chế của lĩnh vực thương mại
 	- Tín dụng nhà nước: là quan hệ giữa một bên là nhà nước còn bên kia là cư dân và các tổ chức kinh tế xã hội.
 	ở hình thức tín dụng này nhà nước vừa là người đi vay vừa là người cho vay, nhà nước có thể cho đân cư vay dưới hình thức phát hành các tín phiếu trái phiếu kho bạc, chính phủ nhà nước cho vay thường là chương chình tín dụng ưu đãi. Phạm vi hoạt động và huy động vốn rộng lớn gồm cả trong nước và nước ngoài. Hình thức huy động vốn rất phong phú. Có thể dưói hình thức cho vay trực tiếp nước ngoài bằng công trái, bằng tiền, bằng vàng, bằng ngoại tệ dưới hình thức là phiếu, tín phiếu, trái phiếu của chính phủ tín dụng ngắn hạn, tín dụng dài hạn. Tín dụng nhà nước vừa mang tính lợi ích kinh tế vừa mang tính cưỡng chế chính trị xã hội.
 	- Tín dụng không chính thống: là quan hệ tín dụng giữa cá nhân với nhau không đặt dưới quan hệ pháp luật
 	Hoạt động của quan hệ không chính thống không chịu sự quản lí và giám sát của nhà nước, hoạt động trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau. Lượng vốn vay nhỏ, thời gian vay ngắn, lãi suất vay cao hay thấp tuỳ thuộc vào mối quan hệ giữa người đi vay và người đi vay. Thủ tục vay thường đơn giản, tiện lợi, bất cứ lúc nào cũng có sẳn. Chính vì vậy mà trong nền kinh tế hiện đại loại hình này vẫn tồn tại khá phổ biến, hình thức hoạt động phong phú, đa dạng.
 	- Tín dụng thuê mua: là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp thuê tài sản với các tổ chức tín dụng thuê mua như các công ty thuê mua, các công ty tài chính
 	Tín dụng thuê mua là kiểu cho thuê tài sản chuyên dụng kèm theo lời hứa sẽ bán lại về sau, chậm nhất là khi kết thúc hợp đồng cho người thuê theo giá thoã thuận từ đầu. 
	2. Thực tiễn tín dụng ở Việt Nam 
 	Nước ta hiện nay hệ thống tín dụng bắt đầu phát triển mạnh. Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải có nền kinh tế phát triển vững mạnh. Vì vậy nhu cầu về vốn ngày càng nhiều, vốn được coi là yếu tố hàng đầu, là tiền đề phát triển kinh tế.
 	Đảng và nhà nước đã sử dụng phương pháp tín dụng là phương pháp chủ yếu để giúp đỡ về tài chính cho các tổ chức kin

File đính kèm:

  • docT019.doc
Giáo án liên quan