Tạp chí Thông tin toán học - Tập 6 Số 4 Tháng 12 Năm 2002
Viện nghiên cứu hoàng gia Canada do Standford Flemming thành lập năm 1849 là một đóng góp nữa của Fields. Ông giữ chức chủ tịch ở đó từ năm 1919 đến năm 1925 và cố gắng xây dựng nó thành một nơi truyền bá tư tưởng khoa học cũng như một trung tâm nghiên cứu khoa học thực sự. Để đạt mục đích đó, ông dành hầu hết thời gian và tiền của để thuyết phục những nhà khoa học xuất sắc đến giảng bài cho thành viên của Viện và quảng đại quần chúng. Những bài giảng buổi tối thứ bảy hàng tuần trở nên quen thuộc trong suốt nhiệm kỳ ông làm việc ở đó. Mơ ước của Fields biến Viện hoàng gia Canada ( RCI trở thành trung tâm nghiên cứu lớn không thành hiện thực, nhưng có lẽ Viện Fields đã xứng đáng với niềm tin của ông. RCI vẫn tích cực với sứ mệnh nâng cao nhận thức chung về khoa học và nổi tiếng với những bài giảng cho quảng đại quần chúng được tổ chức hiện nay vào chiều chủ nhật.
Toán học. Sau khi từ Châu Âu trở về, ông đã vận động cơ quan lập pháp ở Ontario ủng hộ công việc nghiên cứu. Ông còn thuyết phục chính phủ cấp cho ĐHTH Ontario ngân sách nghiên cứu hàng năm là 75000 đô la, một con số đầy ý nghĩa nếu biết rằng vào thời điểm đó một giáo s− kiếm đ−ợc không quá 1000 đô la mỗi năm. Ông cũng dành mọi sự cố gắng của mình cho việc thành lập ủy ban nghiên cứu quốc gia. Đó là tiền thân của ủy ban nghiên cứu quốc gia về khoa học và kỹ thuật của Canada - một tổ chức giống nh− Quĩ nghiên cứu Khoa học quốc gia của Mỹ. Ông cũng sáng lập Quĩ nghiên cứu Ontario. Có thể sự ủng hộ mạnh mẽ của Fields đối với việc nghiên cứu bắt nguồn từ tình bạn của ông với Mittag Leffler, ng−ời đứng đầu một nhóm ở ĐHTH Stockholm (lúc đó có tên gọi là Hửgskola) chủ tr−ơng rằng: “Đại học này nên quan tâm tới việc học tập và nghiên cứu ở trình độ cao nhất, chứ không cần quan tâm đến thi cử hay bằng cấp”. Viện nghiên cứu hoàng gia Canada do Standford Flemming thành lập năm 1849 là một đóng góp nữa của Fields. Ông giữ chức chủ tịch ở đó từ năm 1919 đến năm 1925 và cố gắng xây dựng nó thành một nơi truyền bá t− t−ởng khoa học cũng nh− một trung tâm nghiên cứu khoa học thực sự. Để đạt mục đích đó, ông dành hầu hết thời gian và tiền của để thuyết phục những nhà khoa học xuất sắc đến giảng bài cho thành viên của Viện và quảng đại quần chúng. Những bài giảng buổi tối thứ bẩy hàng tuần trở nên quen thuộc trong suốt nhiệm kỳ ông làm việc ở đó. Mơ −ớc của Fields biến Viện hoàng gia Canada (RCI) trở thành trung tâm nghiên cứu lớn không thành hiện thực, nh−ng có lẽ Viện Fields đã xứng đáng với niềm tin của ông. RCI vẫn tích cực với sứ mệnh nâng cao nhận thức chung về khoa học và nổi tiếng với những bài giảng cho quảng đại quần chúng đ−ợc tổ chức hiện nay vào chiều chủ nhật. Đại hội toán học thế giới (ICM) và Hiệp hội toán học thế giới (IMU) Từ năm 1897 cộng đồng toán học quốc tế tổ chức đại hội Toán học Thế gi−ới (ICM) 4 năm một lần. Lần đầu ICM đ−ợc tổ chức tại Zỹrich. Chỉ có hai lần bị gián đoạn do hai cuộc chiến tranh thế giới. Đại hội ở Zurich có tính chất quyết định về việc hình thành sự hợp tác trong Toán học. Các đại hội sau đó đều duy trì thông lệ: tại mỗi đại hội sẽ quyết định khuôn khổ và nhà tổ chức cho lần đại hội tiếp sau đó. Điều này đ−ợc tiến hành trơn tru cho đến chiến tranh thế giới thứ nhất và thậm chí bất chấp những phiền toái bao trùm nó sau năm 1919, ICM cũng tìm cách vực dậy đ−ợc. Vào thời điểm đó (tức năm 1919) một tổ chức bảo trợ khoa học gọi là “Hội 9 đồng nghiên cứu quốc tế” ra đời ở Brussels (Bỉ) do nhà toán học Pháp Emile Picard làm chủ tịch. Các “chính thể Trung Âu3” gồm Đức, áo - Hung, Bulgaria và Thổ Nhĩ Kỳ không đ−ợc tham gia tổ chức này. Hiệp hội Toán học Thế giới (IMU) ra đời tại Đại hội Toán học thế giới đầu tiên sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất đ−ợc tổ chức vào năm 1920 tại Strassbourg đã bị thừa kế quyết định kì thị này (nhân tiện cũng rút ra hệ quả: IMU chính là con đẻ của ICM!). Có một số ng−ời, trong đó có G.H.Hardy và Mittag Leffler, lên tiếng phản đối nh−ng số đó không chiếm đ−ợc −u thế. Có một vấn đề tranh cãi là liệu có cho phép các chính thể Trung Âu tham dự Đại hội vào năm 1924 ở New York hay không. Mặc dù không hỏi tr−ớc ý kiến của Hội Toán học Mỹ (AMS), L.E.Dickson và L.P.Eisenhart - đại diện cho phái đoàn Mỹ tại ICM ở Strassbourg (1920) - đã mời tổ chức đại hội tiếp theo ở New York. Đến năm 1922 mới té ngửa ra là chính quyền Mỹ không ủng hộ tài chính cho đại hội ở New York vì không thích những chính sách độc đoán của IMU. Do vậy AMS cũng rút lui không tổ chức đại hội ấy. Fields cố gắng bằng mọi giá cứu vãn tình thế. Nhờ vậy mà năm 1922 ng−ời ta đã chọn Toronto là nơi tổ chức ICM năm 1924. Fields ở trong tâm trạng n−ớc đôi: một mặt Ông thất vọng với ý nghĩ các chính thể Trung Âu không đ−ợc tham dự đại hội. Mặt khác Ông ý thức rõ ràng rằng phải tổ chức Đại hội thành công bằng bất cứ giá nào. Gần nh− một tay Fields quán xuyến toàn bộ việc tổ chức Đại hội trong suốt hai năm sau đó để đảm bảo cho thành công của nó. Điều đó chẳng dễ dàng chút nào, nhất là trong tình hình đang diễn ra những xung đột về chính trị. Thực tế Đại hội năm 1924 ở Toronto đã diễn ra rất thành công với sự tham dự 3 Thực ra ý ở đây muốn nói tới các nhà toán học ở các quốc gia Trung Âu của 444 nhà toán học trên thế giới, gấp đôi so với ở Strassbourg và ít hơn một chút so với tr−ớc chiến tranh. Ngoài ra sau Đại hội còn có một chuyến tham quan tới thuộc địa (thời đó) của Anh là Columbia do chính Fields đi cùng. Sau nhiều đêm mất ngủ, sức khỏe của Fields đã giảm mạnh khi trở về tới Toronto. Từ đây, Fields không bao giờ còn có đ−ợc sức sống nh− tr−ớc. Tuy nhiên với sự trợ giúp của đồng nghiệp là J. Chapelan, Ông đã cho ra đời Tuyển tập công trình của đại hội gồm 2 tập lớn vào năm 1928. Mãi đến tận Đại hội Toán học Thế giới ở Bologna năm 1928 các nhà toán học ở các chính thể Châu Âu mới trở lại cùng cộng đồng toán học thế giới. Khi đó chủ tịch IMU lúc bấy giờ là nhà toán học Italia Salvatore Pincherle quyết định lờ sự cấm vận mà một số thành viên có thế lực khác (nh− Picard và th− ký của IMU là Gabriel Koenings) muốn duy trì. Khi đoàn đại biểu của Đức dẫn đầu là David Hilbert, lúc đó đã rất già, b−ớc vào Đại hội, hội tr−ờng đã đứng dậy hoan hô nhiệt liệt. Về sự kiện này Hilbert có nói: “Mọi ranh giới, đặc biệt là ranh giới giữa các dân tộc là trái ng−ợc với bản chất của Toán học”. Những quan điểm trái ng−ợc này trong IMU đã làm tổn th−ơng nó tới mức IMU hầu nh− biến mất sau Đại hội năm 1936 ở Oslo (Na Uy). IMU sống lại vào năm 1950 và cuối cùng từ năm 1962 nó đã duy trì vai trò của mình với những qui định đã thông qua tại Đại hội ở Stokholm. Giải th−ởng Fields Lịch sử ban đầu của Giải th−ởng Fields bắt đầu từ Ban tổ chức ICM4 do ĐHTH Toronto kí quyết định thành lập vào tháng 11/1923. Fields là tr−ởng ban và đồng nghiệp của ông là Synge làm th− 4 Theo chúng tôi hiểu, Ban tổ chức này chịu trách nhiệm điều hành tất cả các ICM. Hiện nay thì truyền thống đã thay đổi: mỗi một ICM có một BTC riêng. (ND) 10 ký. Mặc dù Fields đã thai nghén ý t−ởng về một giải th−ởng nh− vậy từ sớm hơn nh−ng lần đầu tiên nó đ−ợc đề cập đến là trong một biên bản của BTC viết vào ngày 24/12/1931. Tại biên bản có nói “giành 2500 đô la để trao hai giải th−ởng trong những kỳ đại hội liền nhau. Thời kì đầu ủy ban xét giải th−ởng sẽ do BTC đại hội chỉ định, còn về sau do IMU chỉ định.” Số tiền 2500 đô la rõ ràng là phần tiền còn lại sau khi thanh toán các chi phi tổ chức ICM Toronto. Trong một lần họp sau đó của Ban tổ chức vào tháng 1 năm 1932, Fields nói rằng ý t−ởng về một giải th−ởng nh− vậy đã đ−ợc sự ủng hộ của đa số hội toán học nh− Pháp, Đức, Italia, Thuỵ Sĩ, và Mỹ. Cũng tại phiên họp đó ông đã phác thảo những nguyên tắc chọn lựa giải th−ởng. Nguyên nhân của việc nó chỉ dành cho những nhà toán học xuất sắc d−ới 40 tuổi là nh− sau: “....cùng với sự công nhận về thành quả đã làm đ−ợc, nó cần phải khuyến khích những ng−ời đạt giải cố gắng đạt nhiều thành tựu hơn nữa, đồng thời cũng khích lệ sự nỗ lực của những ng−ời khác”. Ông nói tiếp: “khi bình luận những kết quả của ng−ời đ−ợc giải th−ởng nên tỏ ra cẩn thận trong câu chữ, tránh những so sánh gây xúc phạm cho bất cứ ai, dù có chủ ý hay không. ủy ban có thể nói đơn giản rằng, họ quyết định trao giải th−ởng theo h−ớng này hay h−ớng kia không chỉ đơn thuần vì những thành tựu đã đạt đ−ợc mà còn muốn khích lệ sự phát triển của nó”. Với suy nghĩ về những rạn nứt tồn tại 10 năm tr−ớc đó, ông ta nói thêm: “Các giải th−ởng phải mang đặc tính quốc tế thuần tuý và khách quan nhất có thể. Không nên trao nó vì ảnh h−ởng của bất cứ n−ớc nào, viện nào hay cá nhân nào”. Tất nhiên, nhờ những cố gắng của Fields, mà giải th−ởng đã mang tên Ông khi lần đầu đ−ợc trao tại Oslo vào năm 1936. Thật thú vị khi biết rằng tại đại hội đó đã quyết định là Chủ tịch BTC đại hội cần phải gặp Thủ t−ớng Canada để bàn cách duy trì ngân quĩ và sinh lãi hòng đảm bảo có quĩ để trao giải th−ởng. Cuộc gặp nh− vậy không thu xếp đ−ợc và giá trị tiền của giải th−ởng khi ấy chỉ có 15.000$ Canada (khoàng 9.500USD), hoàn toàn không t−ơng xứng với ý nghĩa tinh thần của nó trong Toán học. Thực ra Fields đã có kế hoạch triển khai dự án trao những giải th−ởng đầu tiên, nh−ng Ông bị ốm vào năm 1932 và mất vào tháng 8 năm đó. Tr−ớc khi mất, Ông đã trao lại di chúc cho Synge, khi đó đang túc trực bên cạnh gi−ờng bệnh, để thực hiện −ớc nguyện của mình. Đó là chuyển số tiền 47000 đô la của mình vào quĩ dành cho Giải th−ởng. Fields đ−ợc chôn cất tại nghĩa trang Hamilton nhìn về phía tây hồ Ontario. Bia mộ của ông khá khiêm tốn và đ−ợc ghi giản dị là: “John Charles Fields Sinh: 14/5/1863. Mất 9/8/1932”. Tháng 9 cùng năm đó Synge đem đề nghị của Fields đến Đại hội ở Zurich và đ−ợc chấp nhận. Một ủy ban gồm: G.D. Birkhoff, Caratheodory, E. Cartan, Severi và Takagi đ−ợc thành lập để chọn hai giải th−ởng đầu tiên trao tại Đại hội ở Oslo năm 1936. Họ chọn Lars Ahlfors, một ng−ời Phần Lan và Jesse Douglas một ng−ời Mỹ. Không may, chiến tranh thế giới lại nổ ra. Mãi đến năm 1950 ICM mới đ−ợc tổ chức lại tại Cambridge, Masachusetts. Khi đó nhà toán học Pháp Laurent Schwartz và một nhà toán học Nauy là Atle Selberg đ−ợc lựa chọn. Danh sách những ng−ời đạt giải th−ởng Fields (với sự miêu tả ngắn gọn công trình của họ) có thể tìm5 đ−ợc tại Michael Monastyrsky có viết trong báo cáo của mình ở Hội thảo Fields “Di sản của John Charles Fields”, tổ chức tại Toronto tháng 6 năm 2000, về ảnh h−ởng của những những ng−ời đạt Giải th−ởng Fields
File đính kèm:
tap_chi_thong_tin_toan_hoc_tap_6_so_4_thang_12_nam_2002.pdf