Sự hình thành và phát triển của Văn Miếu - Quốc Tử Giám

Ngay sau khi lên làm vua, năm 1010, Lý Thái Tổ quyết định dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La và đổi tên là thành Thăng Long (tức Hà Nội ngày nay). Hoa Lư có địa thế núi non hiểm trở, chỉ thích hợp với một vị trí phòng ngự lợi hại về quân sự, còn Thăng Long ở giữa vùng đồng bằng, với vị trí trung tâm đất nước và điều kiện giao thông thủy bộ thuận tiện mới có thể trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của một quốc gia độc lập, hùng cường.

Tại kinh thành Thăng Long, nhà Lý cho xây dựng nhiều lâu đài, cung điện, đền chùa và thành lũy bảo vệ. Từ đó, Thăng Long với hình ảnh “rồng bay lên” đẹp đẽ và kiêu hãnh, tượng trưng cho khí thế vươn lên của dân tộc, trở thành trung tâm của đất nước ngàn năm văn vật, trái tim của Tổ quốc Việt Nam. Việc dời đô về Thăng Long phản ánh yêu cầu phát triển mới của quốc gia phong kiến tập quyền và chứng tỏ khả năng, lòng tin, quyết tâm của cả dân tộc giữ vững nền độc lập.

 

doc4 trang | Chia sẻ: Thewendsq8 | Lượt xem: 4540 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự hình thành và phát triển của Văn Miếu - Quốc Tử Giám, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sự hình thành và phát triển của Văn Miếu - Quốc Tử Giám
	Ngay sau khi lên làm vua, năm 1010, Lý Thái Tổ quyết định dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La và đổi tên là thành Thăng Long (tức Hà Nội ngày nay). Hoa Lư có địa thế núi non hiểm trở, chỉ thích hợp với một vị trí phòng ngự lợi hại về quân sự, còn Thăng Long ở giữa vùng đồng bằng, với vị trí trung tâm đất nước và điều kiện giao thông thủy bộ thuận tiện mới có thể trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của một quốc gia độc lập, hùng cường.
Tại kinh thành Thăng Long, nhà Lý cho xây dựng nhiều lâu đài, cung điện, đền chùa và thành lũy bảo vệ. Từ đó, Thăng Long với hình ảnh “rồng bay lên” đẹp đẽ và kiêu hãnh, tượng trưng cho khí thế vươn lên của dân tộc, trở thành trung tâm của đất nước ngàn năm văn vật, trái tim của Tổ quốc Việt Nam. Việc dời đô về Thăng Long phản ánh yêu cầu phát triển mới của quốc gia phong kiến tập quyền và chứng tỏ khả năng, lòng tin, quyết tâm của cả dân tộc giữ vững nền độc lập.
Nhà Lý bắt đầu chăm lo mở mang học tập và thi cử để đào tạo nhân tài và tuyển lựa quan lại có năng lực cho bộ máy hành chính. Đồng thời, nhà Lý cũng nhìn thấy lợi ích của việc tiếp xúc trực tiếp với nền văn hoá Trung Hoa, nhất là trong tình hình quan hệ bang giao với nhà Tống đã trở nên đa dạng hơn. Đó là động lực dẫn đến sự kiện lịch sử quan trọng mà sử thần Ngô Sĩ Liên ghi chép lại trong sách Đại Việt sử ký toàn thư: “Năm Canh Tuất niên hiệu Thần Vũ thứ 2 (1070) đời Lý Thánh Tông, mùa thu, tháng tám dựng Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ tượng thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến học ở đó”.
	Như vậy, Văn Miếu ngoài chức năng thờ các bậc Tiên thánh, Tiên sư của đạo Nho, còn mang chức năng của một trường học Hoàng gia mà học trò đầu tiên là Thái tử Lý Càn Đức, con trai vua Lý Thánh Tông với Nguyên phi Ỷ Lan, lúc đó mới 5 tuổi, đến năm 1072 lên ngôi trở thành vua Lý Nhân Tông.
	Năm 1075, triều đình mở khoa thi đầu tiên để chọn nhân tài. Đó là khoa thi Minh kinh bác học mà người đỗ đầu là Lê Văn Thịnh, sau đó được chọn vào hầu vua học, là khoa thi đầu tiên của triều Lý và cũng là khoa thi đầu tiên của lịch sử khoa cử Việt Nam. Đến năm 1076, vua Lý Nhân Tông cho lập Quốc Tử Giám, tuyển trong các văn thần lấy những người có học vấn bổ vào đó. Trước đây, tầng lớp có học trong xã hội hầu như chỉ có các nhà sư. Nhà Lý mở mang chế độ giáo dục thi cử dần dần xuất hiện tầng lớp nho sĩ. Đó là tầng lớp trí thức mới của giai cấp phong kiến ra đời do nhu cầu phát triển của chế độ trung ương tập quyền và gắn liền với sự truyền bá Nho giáo ở Việt Nam. Từ đó, Nho giáo bắt đầu có địa vị trong xã hội. Đó là một thứ vũ khí phục vụ đắc lực cho chính thể trung ương tập quyền, củng cố chế độ đẳng cấp và giáo dục lòng trung thành với nhà vua.
	Mấy chục năm cuối của triều Lý, tình hình chính trị xã hội không ổn định, uy tín của triều đình suy giảm, sự nghiệp giáo dục không ghi nhận được sự kiện nào đáng chú ý.
	Sang thời Trần, việc học hành thi cử dần dần được khôi phục. Năm 1243, triều đình cho tu sửa Quốc Tử Giám. Năm 1253, vua Trần Thái Tông xuống chiếu lập Quốc Học viện, tô tượng Chu Công, Khổng Tử, Á thánh (Mạnh Tử). 
	Thời thuộc Minh, nhiều di tích lịch sử văn hoá bị phá hoại, nhưng Văn Miếu vẫn được người Minh tôn trọng. Năm Giáp Ngọ (1414), Hoàng Phúc xin với vua nhà Minh cho lập Văn Miếu ở các châu, huyện trong cả nước.
	Lê Thái Tổ đánh đuổi quân xâm lược nhà Minh, lập lại trị bình, chú tâm coi trọng việc học. Ngay từ năm 1428, nhà vua đã lo tổ chức các trường học làm nơi đào tạo tầng lớp quan lại phục vụ nhu cầu cấp thiết cho việc xây dựng nhà nước phong kiến tập quyền lúc ấy.
Dưới thời thịnh trị đời Lê Thánh Tông, nhà vua tôn sùng Nho học, bản thân vua học rộng, đọc nhiều, văn trị, võ công đều có. Đặc biệt vua coi trọng nền giáo dục, chăm lo bồi dưỡng nhân tài, đề cao trọng dụng các bậc hiền sĩ. Năm 1483, triều đình theo sắc chỉ của Lê Thánh Tông đã thực hiện một đợt đại trùng tu Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Chế độ giáo dục thời Lê sơ so với thời Lý, Trần có rộng rãi hơn. Con em tầng lớp bình dân có điều kiện học tập vẫn được nhận vào học các trường ở lộ hay phủ và thi đỗ xuất sắc cũng được tuyển vào học ở Quốc Tử Giám. Năm 1484, vừa gặp kỳ thi hội, Lê Thánh Tông có sáng kiến muốn khắc tên những người đỗ Tiến sĩ vào bia đá, dựng ở Văn Miếu để lưu danh, biểu dương nhân tài của đất nước. Cũng từ đó, các triều đại sau có lệ khắc tên những người đỗ Tiến sĩ vào bia đá. Chính vì lẽ đó mà khi nói đến Văn Miếu-Quốc Tử Giám Hà Nội thì không thể không nhắc đến hệ thống bia tiến sĩ.
	Nhà Mạc chiếm ngôi nhà Lê, nhưng vẫn theo nhà Lê trong việc coi trọng học tập. Năm1536, Mạc Đăng Doanh đã giao cho Mạc Đình Khoa trông nom việc trùng tu Quốc Tử Giám.
	Năm 1762, chúa Trịnh Doanh cho tu sửa Quốc Tử Giám. Cuối thế kỷ XVIII, do biến loạn thời Lê-Trịnh và cũng có thể cả trong cuộc chiến tranh đánh tan quân xâm lược Mãn Thanh, khu vực Văn Miếu cũng bị hư hại. Do vậy, mới có bài sớ chữ Nôm của dân làng Văn Chương xin vua Quang Trung cho dựng lại nhà bia trong Quốc Tử Giám. Vua đã phê đáp lại bằng câu thơ Nôm: 
 Nay mai dựng lại nước nhà
 Bia nghè lại dựng trên toà muôn gian.
	Năm 1802, Nguyễn Quang Toản lệnh cho các trấn trùng tu Văn Miếu. Nhưng quyết định này chưa được thi hành, vì ngay sau đó xảy ra cuộc chiến, Quang Toản thất bại, Gia Long lên ngôi.
	Ngày 28-4-1962, Văn Miếu – Quốc Tử Giám được Bộ văn hoá công nhận xếp hạng là khu di tích lịch sử cấp Nhà nước.
	Quy mô và bố cục của Văn Miếu Hà Nội hiện nay là Văn Miếu lớn nhất trong cả nước, được bảo tồn tương đối hoàn chỉnh và đã thu hút đông đảo khách tham quan trong và ngoài nước, trở thành điểm du lịch quan trọng của Thủ đô Hà Nội.

File đính kèm:

  • docSự hình thành và phát triển của Văn Miếu.doc