Sử dụng bài tập để tổ chức dạy học di truyền học Lớp 9 Trung học Cơ sở
Với cấu trúc như vậy chúng ta thấy nội dung chương trình rất nặng lại thiên về chiều rộng cung cấp cho HS khối lượng kiến thức rất lớn mà ít đi về chiều sâu nên rất khó để học sinh nắm vững vấn đề và hiểu kiến thức một cách sâu sắc, hơn nữa trong chương trình lại rất ít có những tiết dạy về bài tập di truyền để gây hứng thú và kích thích tư duy của học sinh, nội dung bài tập di truyền trong sách giáo khoa lại thiết kế chủ yếu theo từng bài học, từng chương nên tính khái quát và hệ thống chưa cao khả năng liên hợp các nguồn kiến thức để phát triển tư duy của học sinh còn thấp
I.1.2. Đặc trưng lứa tuổi học sinh lớp 9 THCS
Học sinh lớp 9 có độ tuổi từ 15 đến 16, là lứa tuổi quá độ chuyển từ thiếu niên lên thanh niên, trong tuổi này ở các em đang phát triển mạnh cả về thể chất lẫn tư duy, các em ham hoạt động, tò mò, thích tìm hiểu những điều mới lạ. Các em dễ hưng phấn nhưng cũng chóng chuyển sang ức chế khi phải tiếp thu kiến thức một cách thụ động kém hào hứng, các em không thích ngồi nghe những lời giải thích tỉ mỉ của giáo viên, mà các em muốn thể hiện khả năng tư duy, chủ động, sáng tạo của mình để tìm ra nhưng điều mới lạ nên chờ đợi ở giáo viên những bài giảng cuốn hút khiến cho các em tích cực chủ động để tìm nguồn kiến thức mới.
Từ những lí do trên và vai trò của bài tập trong dạy học di truyền học, với mong muốn góp một phần của cá nhân mình để nâng cao chất lượng dạy học sinh học nói chung và dạy học di truyền học lớp 9 nói riêng, tôi mạnh dạn đề xuất phương pháp “ Sử dụng bài tập để tổ chức dạy học di truyền học lớp 9 trung học cơ sở “
II. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG BÀI TẬP ĐỂ TỔ CHỨC DẠY HỌC DI TRUYỀN HỌC LỚP 9 TRUNG HỌC CƠ SỞ
II.1. Bản chất của bài tập di truyền trong dạy học.
II.1.1. Khái niệm bài tập
Theo Nguyễn Ngọc Quang bài tập là bài ra cho học sinh làm để vận dụng những điều đã học nhằm hình thành kiến thức mới, củng cố, hoàn thiện, nâng cao kiến thức đã học.
Bài tập có thể là một câu hỏi, một thí nghiệm, một bài toán hay một bài toán nhận thức.
Bài tập chỉ ra một định hưởng nhận thức cho người học để hướng người học tới việc tìm hiểu, sử dụng vốn hiểu biết tri thức, bổ sung thêm những định hướng tri thức mới từ tài liệu sách giáo khoa. Trên cơ sở đó, bằng năng lực tư duy, vốn kinh nghiệm của mỗi cá nhân tạo ra tiềm lực mới nhận thức được vấn đề đặt ra và như vậy, người học đã tiếp thu được một lượng tri thức mới từ bài tập
được. Do vậy để nâng cao giá trị dạy học từ sách giáo khoa thì giáo viên phải xem sách giáo khoa như là một công cụ để tổ chức hoạt động tự lực của học sinh khi giải bài tập để hình thành tri thức mới. Trong hoạt động đó thì sách giáo khoa đối với học sinh là nguồn tri thức cốt lõi, cơ bản để tra cứu , tìm tòi và tự lực nghiên cứu trước nội dung bài mới ở nhà. Như vậy, sách giáo khoa không còn để ôn kiến thức, tự học các nội dung đơn giản mà còn là công cụ kết hợp để tổ chức học sinh tiếp thu tri thức mới. II.2.2.2. Sử dụng bài tập kết hợp câu hỏi tự lực. Câu hỏi tự lực là những câu hỏi gợi ý của giáo viên theo một định hướng sư phạm dạy học. đó là loại câu hỏi hướng dẫn học sinh khi đọc tài liệu mới, khi giải bài tập. điều này có tác dụng rút ngắn thời gian nhận thức các tri thức mới của học sinh từ tài liệu giáo khoa. đặc biệt loại câu hỏi này rèn luyện cho học sinh tác phong tự học, tự nghiên cứu tìm tòi có định hướng từ các tri thức hững hờ của tài liệu sách giáo khoa. Như vậy, từ bài tập di truyền với nội dung kiến thức mới nhờ định hướng bằng các câu hỏi tự lực giúp học sinh tự nghiên cứu tài liệu sách giáo khoa, tập giải bài tập để lĩnh hội tri thức mới. Quá trình tổ chức bài học mới bao gồm các yếu tố cơ bản theo sơ đồ sau: Bài tập di truyền Định hướng Công tác tự lực nghiên cứu SGK Câu hỏi tự lực gia công Tri thức mới II.2.2.3. Quy trình dạy tự học. Từ các biện pháp sử dụng bài tập di truyền để tổ chức học sinh tự học các quy luật di truyền cho thấy: *Hoạt động dạy của giáo viên được quy về việc nêu hệ thống bài tập và câu hỏi theo phiếu in sẵn cho học sinh tự lực nghiên cứu sách giáo khoa ở nhà từ trước. Giờ lên lớp giáo viên tổ chức dạy thông qua giáo án được thiết kế theo các câu hỏi, bài tập đã cho. Thực chất giờ dạy trên lớp là giáo viên kiểm tra năng lực tự học của học sinh và kiến thức học sinh tiếp thu được qua tự học sau đó tổ chức học sinh thảo luận câu trả lời, lời giải của các câu hỏi bài tập kết hợp phương pháp đàm thoại tìm tòi đồng thời giáo viên chỉnh lý bổ sung để lời giải các câu hỏi, bài tập được hoàn thiện. Đó chính là tri thức mới cần lĩnh hội. Như vậy hoạt động mang tính định hướng, chỉ đạo, hướng dẫn và tạo tình huống. *Hoạt động học được đặc trưng bởi quá trình gia công tài liệu thu được từ giải bài tập bằng một chuỗi các thao tác tư duy: Phân tích, tổng hợp, so sánh, thiết lập mối quan hệ nhân quả, khái quát hoá, hệ thống hoá dưới định hướng của các câu hỏi tự lực. Hoạt động học có thể được tiến hành qua 3 thời điểm sau: -Thời điểm tự học: học sinh tự học bằng chính hành động của mình. Nghĩa là học sinh tự mình trả lời các câu hỏi, bài tập trong phiếu in sẵn trên cơ sở kiến thức cũ đã tiếp thu được từ sách và biến đổi thành của mình. Kết quả là thu được mọt sản phẩm kiến thức và đặt biệt là hình thành biện pháp tự học. Tuy nhiên, tri thức học sinh tiếp thu được ở thời điểm này là tri thức của bản thân cá nhân học sinh còn thô sơ, đơn giản, chưa được kiểm chứng và chưa được khẳng định. -Thời điểm học bạn: Sản phẩm ở thời điểm tự học được đưa ra phân tích bổ sung , thảo luận trước tập thể lớp. Mỗi học sinh sẽ lắnh nghe, bổ sung , điều chính câu trả lời của bạn đối chiếu với sản phẩm của mình tranh luận với nhau để đi đến thống nhất. Như vậy tri thức cá nhân đã được sửa chữa, điều chính dự trên cơ sở của ý kiến của các cá nhân trong nhóm. -Thời điểm học thầy: Thực ra học sinh đã được học thầy ngay từ thời điểm ban đầu qua các câu hỏi, bài tập mà thầy đặt ra cho học sinh. Tiếp đó ở thời điểm học bạn, thầy là người chỉ đạo, tổ chức cho tập thể lớp thảo luận tìm tòi tri thức mới. Cuối cùng ở thời điểm này , thầy là người bổ sung, chỉnh lý giúp học sinh hoàn thiện lĩnh hội quá trình tri thức. Như vậy, hoạt động dạy và học diễn ra trên một nền chung là hoạt động chỉ đạo của rhầy, hoạt động tích cực của trò. Hoạt động học của trò với 3 thời điểm: Tự học, học bạn, học thầy diễn ra theo một đường xoáy ốc nhiều tầng giúp học sinh vừa nắm được kiến thức vừa nắm được cách học. Như vậy có thể nói dạy học tích cực là dạy cho học sinh cách học , phương pháp tự học. II.2.3. Những yêu cầu lý luận đối với việc sử dụng bài tập để tổ chức dạy học di truyền học Hiệu quả của việc sử dụng bài tập để tổ chức công tác độc lập nghiên cứu sách giáo khoa của học sinh nhằm lĩnh hội tri thức mới phụ thuộc vào việc tổ chức đúng đắn hoạt động đó. Khi nghiên cứu bài giảng, giáo viên phải căn cứ vào nội dung của bài học, xác định nhiệm vụ nhận thức cụ thể xây dựng hệ thống bài tập, câu hỏi sao cho phù hợp nhất, kích thích được hoạt động tư duy của học sinh, tạo hứng thú nhận thức. Muốn vậy cần tuân thủ những yêu cầu sau: 1.Việc xây dựng hệ thống bài tập và câu hỏi định hướng cho học sinh tự lực nghiên cứu sách giáo khoa để lĩnh hội tri thức mới. Do vậy khi xây dựng bài tập, câu hỏi phải có tính hệ thống logíc, đồng thời tạo tình huống có vấn đề , tạo hứng thú nhận thức, kích thích sự tìm tòi, sáng tạo của học sinh. 2.Mỗi khi giáo viên cho học sinh nghiên cứu giải bài tập trước ở nhà để lĩnh hội tri thức, giáo viên cần cung cấp cho học sinh bản hướng dẫn, đó là hệ thống câu hỏi tự lực có định hướng để nghiên cứu tài liệu sách giáo khoa. Xác định trình tự của công tác độc lập khi giải bài tập qua hệ thống câu hỏi định hướng, đặc biệt cần chú ý những vấn đề cơ bản của tàiliệu mới. 3.Trong quá trình lên lớp giáo viên cần kiểm tra chất lượng lĩnh hội tri thức của học sinh từ công tác độc lập giải bài tập và nghiên cứu sách giáo khoa. Kiểm tra nội dung tự học, chất lượng giải bài tập, trả lời các câu hỏi bằng cách cho các em phát biểu thảo luận, giáo viên chỉnh lý, bổ sung để đi đến hoàn thiện, chuấn xác kiến thức. 4.Khi sử dụng bài tập để tổ chức học sinh tự học cần phối hợp linh hoạt thêm các phương pháp khác như phương pháp đàm thoại ơristic để dẫn dắt học sinh tự lực phát hiện ra tri thức mới, tăng độ bền kiến thức đã lĩnh hội. II.2.4. Các bước sử dụng bài tập để tổ chức dạy học di truyền học Từ những yêu cầu lý luận về phương pháp tổ chức tự học, từ thực tiễn dạy học di truyền học, việc sử dụng bài tập để tổ chức học sinh tự học di truyền học có thể được tiến hành theo các bước sau: Bước Giáo viên Học sinh Mục đích cần đạt 1 Giáo viên ra hệ thống bài tập và câu hỏi tự lực cho học sinh qua các phiếu in sẵn và yêu cầu học sinh làm ở nhà với phương tiện cụ thể Tự lực giải quyết bài tập ở nhà theo yêu cầu của giáo viên nhờ định hướng của câu hỏi tự lực và nghiên cứu sách giáo khoa Học sinh tự rút ra kết luận của mình qua giải bài tập để lĩnh hội tri thức mới à tri thức cá nhân 2 Kiểm tra chất lượng lĩnh hội tri thức của HS qua tự học. Tổ chức hocj sinh thảo luận các câu hỏi, lời giải của bài tập trước tập thể lớp Tự thể hiện kết luận của mình. Thảo luận trong nhóm, trước tập thể lớp để điều chính và bảo vệ ý kiến của mình Học sinh tự lực hoàn thiện và phát hiện ra tri thức mới à tri thức xã hội 3 Giáo viên chỉnh lý, bổ sung đi đến lời giải II.Mục đích nghiên cứu. Nghiên cứu phương pháp sử dụng bài tập làm phương tiện dạy học di truyền học theo hướng tổ chức hoạt động tự học của HS ở nhà và trên lớp nhằm nâng cao chất lượng dạy học. III.Nhiệm vụ nghiên cứu. 1.Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn việc tổ chức tự học ở nhà và trên lớp cho học sinh. 2.Phân tích cấu trúc nội dung chương trình di truyền học lớp 9 trung học cơ sở, đặt biệt là cơ sở vật chất cơ chế và các quy luật di truyền chú trọng đến tính thừa kế, liên tục giữa các quy luật di truyền, giữa các bậc học làm cơ sở lý thuyết xây dựng, sử dụng bài tập để tổ chức hoạt động tự học của học sinh. 3.Xây dựng và sử dụng các bài tập làm phương tiện để rèn luyện năng lực tự học của học sinh 4.Thực nghiệm sư phạm để kiểm tra hiệu quả của việc sử dụng bài tập di truyền rèn luyện năng lực tự học của học sinh qua các khâu của quá trình dạy học đặc biệt là khâu học ở nhà và ở lớp trong nghiên cứ tài liệu mới. IV. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Nội dung chương trình di truyền học lớp 9 trung học cơ sở Học sinh lớp 9 và việc học bộ môn di truyền học của các em Cơ sở lí luận và thực tiễn của phạm vi sáng kiến kinh nghiệm Phạm vi nghiên cứu: Chương trình di truyền học lớp 9 trung học cơ sở Phần II : NHữNG BIệN PHáP TIếN HàNH A- Hệ thống bài tập và giáo án soạn theo phương pháp sử dụng bài tập để tổ chức dạy học di truyền học lớp 9 trung học cơ sở Dưới đây tôi xin trình bày một số ví dụ về cụ trể về sử dụng bài tập để dậy học di truyền học lớp 9 ở mức độ từng phần hoặc từng bài như sau: Ví dụ 1: Tiết 3 : Lai một cặp tính trạng ( tiếp theo ) Mục III – Lai phân tích Giáo viên yêu cầu học sinh làm bài tập sau: Cho 2 phép lai sau Phép lai 1: Hoa đỏ X Hoa trắng AA aa Phép lai 2: Hoa đỏ X Hoa trắng Aa aa Hãy xác định kết quả và so sánh 2 phép lai trên ? Làm thế nào để xác định kiểu gen của 2 cây hoa màu đỏ ở thế hệ bố mẹ trong 2 phép lai trên ? Từ đó yêu cầu học sinh làm bài tập điền từ ở mục ẹ trang 11 sách giáo khoa sinh học 9 Học sinh với kiến thức đã học ở tiết 2 sẽ nhanh chóng xác định được kết quả của 2 phép lai trên và chỉ ra được điểm giống của 2 phép lai đó là đều cho cây hoa đỏ lai với cây hoa trắng nhưng kết quả phép lai thi khác nhau do 2 cây hoa đỏ ở thế hệ bố mẹ có kiểu gen khác nhau. Vì vậy muốn xác định kiểu gen của các cây hoa đỏ ở thế hệ bố mẹ trong 2 phép lai trên thi cho chung lai với cây hoa trắng và như vậy học sinh dễ dàng làm được bài tập điền từ để tìm ra khái niệm phép lai phân tích. Ví dụ 2: Tiết 3 : Lai một cặp tính trạng ( tiếp theo ) Mục V – Trội không hoàn toàn Giáo viên ra cho học sinh bài tập như sau: Khi cho lai hai giống hoa phấn thuần chủng hoa đỏ và hoa trắng thu được F1, cho F1 tự thụ phấn thì tỉ lệ kiểu gen và kiểu hình ở F2 sẽ như thế nào ? Biết rằng màu hoa đỏ do gen A quy định, màu hoa trắng do gen a quy định. Với kiến thức về lai một cặp tính trạng học sinh sẽ giải bài tập này như sau: Pt/c: AA x aa F1: Aa F2: 1AA: 2Aa: 1aa 3đỏ: 1 trắng Giáo viên cho học sinh nghiên cứu ví dụ ở trang 12 sách giáo khoa
File đính kèm:
- Sang kien KN day DTH 9.doc