Những bài văn tham khao thi cuối học kì I

PHÂN TÍCH TÁC PHẨM HAI ĐỨA TRẺ CỦA THẠCH LAM

Mở bài 1

Thạch Lam (1910 – 1942) là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam của thế kỉ XX. Truyện của ông là những “chuyện tâm tình”. Đằng sau những trang truyện đậm chất thơ, ta vẫn thấy thấp thoáng hình ảnh tác giả, đó là một con người có tâm hồn đôn hậu, tinh tế, rất nhạy cảm đối với mọi biến thái tinh vi của lòng người và tạo vật. Qua “ ” chúng ta cũng có thể thấy rõ điều đó (“ ” tuỳ vào từng đề).

Mở bài 2

Thạch Lam từng nói: “Mỗi tác phẩm của nhà văn đều có một phần nhà văn trong đấy”. Dù người viết trong các sáng tác có cố gắng che dấu cái chủ quan của mình đằng sau những trang văn miêu tả hiện thực khách quan, thì ít hay nhiều, những sáng tác ấy đều mang bóng của nhà văn. Phải thế chăng mà sau những truyện ngắn của Thạch Lam, ta từng bắt gặp một con người của ông với tâm hồn đôn hậu, tinh tế, hết sức nhạy cảm trước mọi biến thái của tạo vật và lòng người. Chúng ta sẽ thấy rõ điều đó qua bức tranh phố huyện nghèo và diễn biến tâm trạng của hai chị em Liên trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”.

Thân bài

Thạch Lam (1910 – 1942) tên thật là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi thành Nguyễn Tường Lân. Ông sinh và mất ở Hà Nội, nhưng khi còn ấu thơ có một thời gian ở Cẩm Giàng, Hải Dương. Ông là em ruột hai nhà văn Nhất Linh và Hoàng Đạo, và là một trong những cây bút chủ chốt của “Tự lực Văn Đoàn”.Thạch Lam là một cây bút truyện ngắn tài hoa, xuất sắc. Truyện của ông thường không có cốt truyện đặc biệt. Mỗi truyện là một bài thơ trữ tình đượm buồn. Ông thường đi sâu khai thác đời sống nội tâm nhân vật với những cảm xúc, cảm giác mơ hồ, mong manh, tinh tế. Hai yếu tố “Hiện thực và lãng mạn, tự sự và trữ tình thi vị” luôn luôn đan cài, xen kẽ vào nhau, tạo nên nét đặc thù, đặc sắc khó lẫn trong trong phong cách nghệ thuật của ông, “Hai đứa trẻ” rút từ tập truyện “Nắng trong vườn” – 1938 là tác phẩm xuất sắc tiêu biểu cho đời văn và phong cách Thạch Lam.

 

doc5 trang | Chia sẻ: minhanh03 | Lượt xem: 924 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những bài văn tham khao thi cuối học kì I, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n thuộc mà rất thi vị: “Chiều, chiều rồi! Một chiều êm ả như ru”. Lời văn rất nhẹ nhàng, nhịp văn êm ái đã đưa con người vào thế giới thanh bình của cảnh vật. Ngòi bút tinh tế và tạo hình của Thạch Lam chỉ chấm phá vài nét mà đã vẽ được một bức tranh rất sinh động với đủ đường nét, màu sắc, âm thanh, hương vị “phương Tây đỏ rựcvà những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mắt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Giữa những hình ảnh sinh động của cảnh vật vang lên âm thanh “tiếng trống thu không” gọi buổi chiều xen lẫn với tiếng “ếch nhái kêu ran ngoài đồng theo làn gió nhẹ đưa vào” “muỗi bắt đầu vo ve”, “đom đóm bay nhấp nháy”, “hoa bàng rụng khẽ” chỉ bằng mấy câu văn ngắn gọn, Thạch Lam đã đưa độc giả trở về khung cảnh đầy linh hồn êm ả, thị vị mà đượm buồn, thân thiết của quê hương, làng mạc, của nông thôn Việt Nam muôn đời. Nó khơi gợi trong tâm hồn con người một tình cảm gắn bó thiết tha với miền quê lam lũ. Nơi ấy không chỉ có những cảnh sắc thanh bình, thơ mộng, êm đềm mà còn có cả những mảng đời lam lũ, tăm tối.
II. Tâm trạng của chị em Liên trước bức tranh chân thực về đời sống phố huyện nghèo lúc chiều tối.
Vì thế “Hai đứa trẻ” ngoài việc mở ra bức tranh thiên nhiên, còn đi sâu vào tái hiện bức tranh chân thực về đời sống phố huyện nghèo và chỉ qua bức tranh đó, ngòi bút nhân đạo, cái nhìn tinh tế, nhạy cảm của Thạch Lam mới có dịp phát huy đầy đủ nhất.Cuộc sống con người phố huyện trong thế giới “chìm chìm, nhạt nhạt” và vắng lặng của buổi chiều tối được dựng lên bằng những nét kí hoạ rất đỗi chân thực và được nhà văn gửi gắm qua cái nhìn ngây thơ của chị em Liên. Trong con mắt của hai đứa trẻ, từ cảnh vật cho đến cảnh sinh hoạt nơi phố huyện, đâu đâu cũng gợi lên sự tàn tạ, quẩn quanh, bế tắc.
1. Mở đầu là khung cảnh ngày tàn.
Sự tàn tạ được cảm nhận bắt đầu bằng một hình ảnh: một buổi chiều tà, khoảng thời gian vốn dễ khơi dậy nhiều nỗi niềm trong tâm hồn con người. Buổi chiều quê lặng lẽ khép lại bằng “tiếng trống thu không” báo hiệu ngày tàn. Những ánh sáng yếu ớt của thiên nhiên rồi cũng tắt dần. Thời điểm hoàng hôn đã trở thành khoảng thời gian đặc biệt gắn bó với văn chương. Khoảnh khắc giao thoa giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sự sống náo nhiệt và sự yên lặng lụi tàn luôn gây cho lòng người nỗi buồn thấm thía. Xuân Diệu, thi sĩ của những vần thơ xôn xao, rạo rực xuân tình, đắm say cảnh sắc cũng đã hơn một lần cảm thấy “Không gì buồn bằng những buổi chiều - Mà ánh sáng hoà cùng bóng tối” “Không gian xám tưởng sắp tan thành lệ”.
2. Cảnh chợ cũng tàn.
Cái buồn của hình ảnh chiều tàn ở đây dường như được cộng hưởng, được nhân lên với hình ảnh của một buổi chợ tàn: “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi: vỏ
bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Không khí náo nhiệt, nhộn nhịp người mua kẻ bán đã lắng xuống, chỉ còn lại sự trống vắng quạnh hiu. Có gì vui hơn là cảnh chợ đông, có gì buồn hơn là cảnh chợ tàn: Khung cảnh “Chợ tết” trong thơ Đoàn Văn Cừ náo nhiệt là thế mà cũng không cứu vãn được cảnh tàn tạ, hiu hắt, khi “Những người quê lũ lượt trở ra về": "Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê - Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ”
Giữa khung cảnh chợ tàn ấy, tâm hồn nhạy cảm của Liên đã nhận ra thứ mùi vị rất riêng của xứ sở. “Cái mùi cát bụi quen thuộc quá” mà Liên tưởng “là mùi riêng của đất, của quê hương này”chính là mùi vị quen thuộc của nghèo khổ, lầm than, bế tắc. Hiện thực cuộc sống trong tác phẩm của Thạch Lam không phải là sự cày xới ngổn ngang những mảnh đời đau thương, bi đát, quằn quại như cuộc đời nhân vật của Nam Cao, Ngô Tất Tố Hiện thực trong tác phẩm của Thạch Lam được thể hiện qua những chi tiết bình thường, giản dị như trên nhưng lại có sức ám ảnh đặc biệt cho tâm hồn người đọc.
3. Bức tranh về kiếp người tàn.
Đi liền với hình ảnh chiều tàn, chợ tàn là hình ảnh những kiếp người tàn như là linh hồn, là đỉnh cao cảnh quan bức tranh chân thực về đời sống ở phố huyện nghèo. Trong khung cảnh chiều tàn, phố huyện tiêu điều sau phiên chợ vãn người, cuộc sống sinh hoạt vất vả, đơn điệu của những người dân nghèo khổ lam lũ hiện lên đáng thương biết bao.
a) Đó là mấy đứa trẻ con nhà nghèo ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi “chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ thứ gì có thể dùng được của người bán hàng để lại”. Hình ảnh những đứa trẻ con ngây thơ cúi đầu tìm kiếm những vật dụng nhỏ nhoi vô nghĩa lý đem lại cho người đọc cảm nhận: dường như gánh nặng cuộc đời cũng đang đè nặng lên đôi vai chúng. Cái vô tư, hồn nhiên, tinh nghịch vốn có ở những đứa trẻ đã sớm mất đi bởi đời sống khốn khổ, tàn tạ nơi phố huyện.
b) Đó là chị Tý “Suốt ngày đi mò cua bắt tép, tối đến chị mới dọn cái hàng nước”. Cái cửa hàng của chị cũng nghèo nàn như cuộc đời của chị. Nó chỉ là một cái chõng tre, một ít đồ đạc điếu đóm, tất thảy vừa đủ một chuyến đội đầu, xách tay của chị và thằng cu bé “chả kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng từ chập tối cho đến đêm”.
c) Cùng với số phận của chị Tý là số phận của bác phở Siêu với gánh hàng phở leo lét ánh lửa. Đó là thứ hàng dù ngon nhưng “là một thứ qùa xa xỉ” với người dân phố huyện cho nên “bóng bác mênh mang ngả xuống một 
vùng và kéo dài đến tận hàng rào”. Sự kéo dài của cái bóng dường như cũng là sự kéo dài của nỗi buồn, sự bế tắc tàn tạ trong cuộc đời bác.
d) Gia đình bác xẩm:
“Ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để trước mặt thằng con bò ra đất, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường”, thỉnh thoảng “mấy tiếng đàn bầu bật trong yên lặng” càng gợi lên cảm giác đơn điệu hiu hắt.
e) Hai chị em Liên:
Với “cái cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu, mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê ở, vì thầy Liên mất việc”. Hôm nay là phiên chợ “mà bán hàng cũng chẳng ăn thua gì”. Quảng đời ấu thơ ở chốn đô thị náo nhiệt, đầy ánh sáng chỉ là bóng mờ ký ức trong Liên. Cô trở thành người con gái đảm đang và dường như phải sớm lo toan, già đi trước tuổi.
f) Hình ảnh bà cụ Thi nghiện rượu, hơi điên với dáng đi “lảo đảo” lẫn vào bóng tối và “tiếng cười khanh khách”. Đó có lẽ là tiếng cười duy nhất của các nhân vật trong tuyện. Nhưng tiếng cười ấy không mang lại cho mọi người cảm giác vui lây. Trái lại, nó gây cho Liên sự sợ hãi. Bởi trong tiếng cười ấy dồn nén, chất chứa bao nỗi đắng cay, tủi nhục, bế tắc. Vì vậy, bà cụ Thi là hiện thân của kiếp người tàn.Đi vào những số phận nhỏ bé, những cuộc đời thường của người dân trên phố huyện, Thạch Lam đã nhóm lên ở đó chất thơ của đời thường, chất thơ của lòng trắc ẩn, của sự đồng cảm, chia sẻ nhân đạo.
III. Tâm trạng của chị em Liên trước bức tranh đêm tối mênh mông của đất trời phố huyện.
1. Bóng tối làm chủ tất cả
Khi ánh chiều đã tắt thì bóng tối ập xuống. Tâm trạng của chị em Liên lại xoay quanh cái quầng sáng thu nhỏ xung quanh ngọn đèn con trên chõng hàng nước ế ẩm của chị Tý.Cả phố huyện giờ chỉ thu nhỏ vào cái ngọn đèn con leo lắt ấy, còn xung quanh, bóng tối làm chủ tất cả “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”, bên cạnh có gánh phở bác Siêu, ngọn đèn Hoa Kỳ vặn nhỏ của Liên Tất cả mấy đốm sáng, hột sáng thưa thớt tù mù. Những hột sáng nhỏ nhoi ấy chẳng thể làm cho đêm sáng ra, mà trái lại càng khiến cho đêm tối thêm mịt mùng dày đặc. 
2. Một nhịp sống quẩn quanh, đơn điệu, bế tắc
Trong bóng tối ấy là những cuộc đời bóng tối quẩn quanh, bế tắc. Hình ảnh ngọn đèn con của chị Tý chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần là một hình ảnh có sức gợi tả đặc biệt. Hình ảnh ấy có ý nghĩa như một biểu tượng về kiếp người nhỏ bé, vô danh, vô nghĩa, sống leo lắt trong đêm tối mênh mông của xã hội cũ không có hạnh phúc, không có tương lai. Hình ảnh ấy cũng gợi về nhịp sống lặp đi lặp lại một cách uể oải, đơn điệu,buồn chán, bế tắc ngày này sang ngày khác không có gì thay đổi. Đúng như Tố Hữu đã viết:
“Giữa dòng ngày tháng âm u đó
Không đổi nhưng mà trôi cứ trôi”
Những người dân nghèo khổ trong cảnh ấy vẫn mơ hồ bâng quơ “mong đợi cái gì đó tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. “Một cái gì đó” là cái gì vậy? Rất mông lung, mơ hồ, điều đó càng nói lên tình cảnh tội nghiệp của những người sống mà không biết cuộc sống của mình ra sao
=> Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn nhưng có nhiều trang rất hiện thực. Bức tranh đời sống nghèo nói trên là một trong những trang tiêu biểu nhất. Nó đã nói lên được một cách thấm thía và ám ảnh tình trạng cuộc sống âm u, mòn mỏi, bế tắc của người dân nghèo, đồng thời bày tỏ tấm lòng xót thương bao la của tác giả đối với những kiếp người sống “tù mù” ấy (chữ dùng của Nguyễn Tuân)
IV. Đó là nguyên nhân nảy sinh tâm trạng của Liên, đặc biệt là tâm trạng chờ đợi tàu
+) Chính số phận quẩn quanh, bế tắc của những kiếp người tàn, bức tranh của ngày tàn đã như thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của Liên, gây cho Liên một nỗi buồn man mác.
1. Liên hồi tưởng về kỉ niệm tuổi thơ tươi sáng trước đây ở Hà Nội . 
Liên và An ngửi thấy mùi phở thơm và nhớ lại khi ở Hà Nội “chị được hưởng những thứ quà ngon lạ như thế được đi chơi Bờ Hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”. Liên bâng khuâng nhớ về “Hà Nội nhiều đèn quá, tạo nên một vùng sáng rực và lấp lánh”. Nhưng giờ đây, ánh sáng ấy chỉ là bóng mờ kí ức trong đêm.
2. Liên chờ đợi tàu - hướng về tương lai, khao khát sự đổi thay. 
Và trong bối cảnh của bức tranh phố huyện tối tăm, tù túng, vốn là người có trái tim rất nhạy cảm nên Liên đã để lại cho tâm hồn mình vượt ra khỏi hiện thực ngột ngạt, vươn tới một giấc mơ, một khát vọng khác với cảnh sống nghèo nàn, tăm tối, bế tắc hiện tại. Liên ngồi chờ đợi đoàn tàu, không phải để đi bán hàng, không phải vì nhu cầu vật chất, bởi không mong gì ai mua nữa mà vì một lí do khác “muốn được nhìn chuyến tàu, đó là hoạt động cuối cùng trong đêm”. Nghĩa là Liên khát khao khắc khoải, háo hức chờ mong một sự đổi thay, khao khát một cái gì khác thường khuấy động cái không khí đơn điệu, buồn tẻ, quẩn quanh, tù túng, lụi tắt dần trong đêm tối. Thực chất đó là nhu cầu khát vọng về tinh thần, nhu

File đính kèm:

  • docPHAN TICH TAC PHAM HAI DUA TRE CUA THACH LAM.doc
Giáo án liên quan