Giáo Trình Cơ Sở Văn Hoá Việt Nam
Thế kỷ XX đã khép lại.Trong thế kỷ này loài người đã nếm trải những đau khổ,
chết chóc dohai cuộc chiến tranh thế giới, nhiều cuộc chiến tranh cụcbộ, địa phương
gây ra vì những mâu thuẫn của chủnghĩa đế quốc với phong trào giải phóng dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, vì những mâu thuẫn về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo Cái xấu,
cái ác và bất công xã hộiđang gia tăng. Môi trường sống bịô nhiễm, cân bằng sinh
thái bị phá hoại nghiêm trọng. Tuy nhiên, trong thế kỷ này loài người cũng đã gặt hái
được nhiều thành tựu vĩđại như mộthành trang để bước vào thế kỷ XXI.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới - con đẻ của Cách mạng tháng
Mười năm1917 - đã đóng vai trò chủ yếu trong chiến thắng chủ nghĩa phát xít, cứu loài
người và nền văn minh nhân loại. Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới hình thành và lớn
mạnh, phong trào giải phóng dân tộc dâng lêncuồn cuộn, dẫn tới sự giải thể của chủ
nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới, buộc chủ nghĩa tư bản phải điều chỉnh,
cải cách để tiếp tục tồn tại.Nhân dân Việt Nam - dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam - đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện - đã góp phần xứng
đáng vào thành tựu vĩ đại ấy củalịch sử hiện đại thế giới.
Ở vài thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, loài người chứng kiến cuộc khủng
hoảng lớn trong vấn đề trả lờicâu hỏi: "Con người có khả năng cải tạothế giới không?
Nếu có thì bằng cách nào?". Trong bối cảnh đó, những nước xã hội chủ nghĩa như
Trung Quốc, Việt Nam, thực hiện thắng lợi công cuộc cải cách, công cuộc đổi mới,
tiếp tục đi lên trên con đường của chủ nghĩa xã hội; Cuba kiên trì xây dựng đất nước
theo học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin, từng bước phá vỡ sự bao vây, cấm vận của
Mỹ; Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên đang khắc phục những khókhăn to lớn về
kinh tế - xãhội để phát triển, hoà bình thống nhất tổ quốc Trong bối cảnh đó loài
người đang trông thấy sự lớn lên của các lực lượng cánh tả trên không gian rộng lớn
trước đây từng tồn tại Liên bang cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô-viết, các nước xã hội
chủ nghĩa Đông Âu; lo sợ về vai trò của Liên bang Nga trên chính trường thế giới, về
sự phục hồi của chủ nghĩa xã hội, Mỹ và các nướcEU đang vội vã xúc tiến kế hoạch
mở rộng NATO sang phía Đông Trong bốicảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận
định: loài người đang ở trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tưbản lên chủ nghĩa xã hội.
Trong thế kỷ XX có sự đảo lộn lớn của các quan điểmkhoa học và công nghệ, t
một chế độ giáo dục quân sự nghiêm
khắc. Cư dân ở thành bang ấy sản xuất, buôn bán đồng thời ăn cướp, bành trướng lãnh
thổ. Đế quốc Hy lạp và sau đó là đế quốc La mã trong lịch sử cổ đại phương Tây là
những đế quốc giàu có, văn minh với lãnh thổ mênh mông. Trong những thành bang ấy
xuất hiện một đội ngũ trí thức quan tâm đến chính trị, triết học, pháp luật, khoa học,
văn học và nghệ thuật. Quyền tư hữu, giao kèo (contrat) trong làm ăn buôn bán, thị
trường làm ăn buôn bán và giá cả thị trường, là cống hiến của những thành bang ven
"hồ Hy lạp" cho sự phát triển của văn minh phương Tây, khiến cho châu Âu có thể
khắc phục được "phương thức sản xuất châu Á" tiềm tàng trong các rợ xâm lăng và tàn
phá đế chế Lamã. b). Trong khi đó thì văn hóa phương Đông cho đến cuối thế kỷ XIX
- đầu thế kỷ XX được xây dựng trên cơ sở nông nghiệp trồng trọt trên lưu vực của
những con sông lớn. Thủ công nghiệp chỉ là nghề phụ thuộc, phụ thuộc vào nông
nghiệp và nông thôn. Thương nghiệp bị cọi là một nghề "trục mạt" (đuổi theo cái
ngọn) so với "dĩ nông vi bản" (lấy nông làm gốc). Ở phương Đông, công xã thị tộc
đựơc bảo lưu trong xã hội có giai cấp và tàn tích của công xã thị tộc tồn tại hết sức lâu
dài. Việc không phá vỡ công xã thị tộc, mà bảo lưu nó trong lòng các xã hội có giai
cấp là điểm quan trọng nhất quy định những hệ quả văn hóa của phương Đông, cũng là
bí mật đầu tiên của hình thái kinh tế - xã hội thường được gọi một cách ước lệ là thuộc
phương thức sản xuất châu Á41.
41 Phương thức sản xuất châu Á (tiếng Anh: the asiatic mode of production; tiếng Pháp:
mode de production asiatique) – khái niệm sử học – xã hội học do Karl Marx đề ra.
Karl Marx đã đi sâu nghiên cứu đặc điểm của xã hội phương Đông và đưa ra khái
niệm này. Nói chung thì trong giai đoạn công xã nguyên thủy tan rã và chuyển sang xã
hội có giai cấp, gia đình nhỏ ra đời và phát triển, công xã nông thôn dần dần thay thế
cho công xã thị tộc. Công xã nông thôn khác công xã thị tộc do: các thành viên có
quyền sở hữu đối với ruộng đất đựơc chia để tự cày cấy (trước đó, quyền sở hữu ruộng
Lê Chí Dũng Khoa Ngữ văn
Cơ sở văn hóa Việt Nam - 26 -
Như vậy, phải chăng một trong những nguyên nhân gây ra sự cách biệt cơ bản
của văn hóa phương Tây với văn hóa phương Đông - một bên là văn minh động, văn
minh vật chất, một bên là văn minh tĩnh, văn minh tinh thần - là ở chỗ có hay không
nhân tố khắc phục được phương thức sản xuất châu Á?
II. VĂN HÓA VIỆT NAM.
đất và kết quả lao động chung cho cộng đồng); công xã nông thôn không dựa vào
huyết thống (thị tộc) nữa. Như vậy, có hai yếu tố sở hữu (tư hữu và tập thể) mâu thuẫn
nhau, môi trường lịch sử cụ thể từng nơi quyết định yếu tố nào thắng. Riêng về loại
hình công xã nông thôn ở châu Á, Karl Marx gợi ra những đặc trưng cơ bản này: quyền
sở hữu ruộng đất là hoàn toàn thuộc công xã; cá nhân chỉ có quyền chiếm hữu và sử
dụng; cuối cùng, quyền chiếm hữu bao trùm lên hết là của nhà vua ( hoàng đế) được
thần thánh hóa. Một phần hoa lợi của công xã đóng cho nhà vua, vua ban một phần
cống nạp đó cho quan lại. Vua có nhiệm vụ bảo vệ công xã, đất nước bằng quân sự, tổ
chức làm những công trình công cộng lớn (thủy lợi, giao thông). Cá nhân không độc
lập được với cộng đồng; mỗi cộng đồng (xóm làng, xã), là một đơn vị nông nghiệp –
thủ công nghiệp tự cung tự cấp. Thành thị là nơi vua chúa ở và nơi tập trung buôn bán.
Thủ công nghiệp bị lệ thuộc vào nông nghiệp ở các làng xã. Với những đặc điểm đó,
xã hội có giai cấp và nhà nước đầu tiên ở phương Đông thuộc phạm trù hình thái kinh
tế – xã hội chiếm hữu nô lệ, hay phong kiến, hoặc một hình thái kinh tế – xã hội riêng
biệt nào khác? Đó là nội dung cơ bản của cuộc tranh luận rộng rãi trên phạm vi thế
giới về vấn đề phương thức sản xuất châu Á ; cho đến nay cuộc tranh luận đó vẫn chưa
kết thúc.
Theo một quan niệm sử học ở Việt Nam thì vào thời Hùng Vương – An Dương
Vương ở nước ta đã xuất hiện xã hội phân hóa giai cấp sơ kỳ với một hình thái kinh tế
– xã hội đặc thù của phương Đông. Cơ sở là làng xã định cư dựa vào công xã nông
thôn. Mỗi công xã nông thôn quy tụ một số gia đình trên một địa bàn nhất định, ở đó
bên cạnh quan hệ láng giềng là quan hệ huyết thống (làng và họ). Quan hệ nô lệ chỉ
phát triển đến một mức nhất định, không thành quan hệ chủ đạo. Trên nền tảng
phương thức sản xuất châu Á, chế độ phong kiến dần dần hình thành và được xác lập
vào thế kỷ XV. Tàn dư của phương thức sản xuất châu Á và cả của chế độ công xã
nguyên thủy tồn taị trong chế độ phong kiến Việt Nam một cách dai dẳng, tồn tại ngay
cả trong lòng của chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở nước ta và ngày nay những tàn dư
ấy vẫn còn gây ảnh hưởng tiêu cực đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Lê Chí Dũng Khoa Ngữ văn
Cơ sở văn hóa Việt Nam - 27 -
Học giả nổi tiếng người Anh Arnold Toynbee trong cuốn sách của mình A study
of History 42 (Một công trình nghiên cứu về lịch sử) đã cho rằng trong lịch sử nhân loại
từng tồn tại 34 nền văn minh, nhưng chỉ có 18 nền văn minh là chịu đựng được sự thử
thách của thời gian và phát triển cho đến ngày nay; văn minh Việt Nam, văn minh
Trung quốc, văn minh Triều Tiên, văn minh Nhật Bản là 4 nền văn minh Á Đông trong
số 18 nền văn minh như vậy của loài người.
1. Văn hóa Việt Nam từ cơ tầng văn hóa Đông Nam Á hội nhập vào văn
hóa Đông Á.
Việt Nam là một nước văn hiến với hàng ngàn năm tồn tại và phát triển.
Nghiên cứu văn hóa Việt Nam, không thể không đặt nước ta trong bối cảnh
Đông Nam Á.
Đông Nam Á là một vùng, trong lịch sử xa xưa, bao gồm không gian ngày nay
của các nước Đông Nam Á và miền nam Trung quốc bây giờ (lưu vực Nam sông
Dương Tử (sông Trường Giang) đến biên giới của nước Đại Việt thời trung đại).
Hầu hết các con sông lớn của Đông Nam Á đều bắt nguồn từ hai dãy núi
Himalaya và Thiên Sơn. Lưu vực của những con sông ấy là những đồng bằng đầy phù
sa, rất phì nhiêu. Thế nhưng, đặc trưng quan trọng của Đông Nam Á là có độ chênh
lệch khá lớn giữa đồng bằng và miền núi, có độ chênh lệch tương đối nhỏ giữa đồng
bằng và mặt biển. Đó là Đông Nam Á lục địa. Nhìn ra biển, chúng ta nhìn thấy một
Đông Nam Á hải đảo.
Việt Nam nằm trên bán đảo Đông Dương, chiếm trọn phần Đông của bán đảo
này; tính chất bán đảo của nước ta rất nổi bật. Về mặt địa - văn hóa (géo - culture),
bản sắc văn hóa Việt Nam là bản sắc bán dảo, tiếp nhận và tích hợp (intégration) cả
ảnh hưởng lục địa, cả ảnh hưởng của hải đảo. Nói đúng hơn, theo cái nhìn địa - văn
hóa, có thể thấy Việt Nam vùng văn hóa núi, vùng văn hóa đồng bằng và vùng văn
hóa biển. Việt Nam, theo cái nhìn ấy, như một Đông Nam Á thu nhỏ. Tuy nhiên cần
phải khẳng định rằng văn hóa Việt Nam là văn hóa nông nghiệp lúa nước. Văn minh
nông nghiệp lúa nước cũng là đặc trưng của văn minh Đông Nam Á trước khi những
nước này hội nhập vào văn minh thế giới.
Trước khi Việt Nam xúc tiếp với văn hóa Trung Hoa và văn hóa Ấn Độ, người
Việt Nam dần dần ý thức rằng văn hóa nước ta cần thiết phải tiếp nhận những mặt
mạnh trong văn hóa của nước láng giềng "núi liền núi, sông liền sông", mặc dù văn
hóa Trung hoa đến với nước ta trước và trong thời trung đại vừa bằng con đường bạo
lực, vừa bằng sự giao lưu tự nguyện, các triều đại phong kiến Trung quốc từ nhà Tần
42 Arnold Toynbee: A study of History, Oxford University Press and Thames Hudson
Ltd, London, 1972.
Lê Chí Dũng Khoa Ngữ văn
Cơ sở văn hóa Việt Nam - 28 -
đến nhà Thanh không bao giờ nguôi ngoai cái ý định đồng hoá văn hóa Việt Nam.
Trong lúc người Việt Nam ngày càng đẩy mạnh giao lưu văn hóa với Trung Hoa, thì
các tộc người khác ở Đông Nam Á chủ yếu tiếp xúc với văn hóa Ấn Độ.
Trong quá trình tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa và văn hóa Ấn Độ, cơ tầng văn
hóa Đông Nam Á dần dần bị giải thể cấu trúc, nhưng các " mảnh vụn" của nó được
bảo lưu trong văn hóa dân gian; những "mảnh vụn” ấy làm nền tảng gìn giữ bản sắc
văn hóa của các tộc người trong vùng như di sản chung của Đông Nam Á. Với những
"mảnh vụn" ấy, bằng phương pháp phục nguyên, người ta có thể dựng lại mô hình văn
hóa Đông Nam Á trước khi bị giải thể cấu trúc; mô hình này được thể hiện bởi 3 hệ
thống chính: a). Tổ chức sản xuất và đời sống; b). Tổ chức thiết chế gia đình, làng,
nước; c). các nghi lễ nông nghiệp, tín ngưỡng và các hình thức sinh hoạt văn hóa dân
gian. 43 Phải chăng "một nền canh tác lấy lúa nước làm cơ sở, một cơ cấu làng xã gần
như tự trị, một địa điểm tập trung dân bàn việc làng, {}, một tôn giáo phổ biến thờ
cúng tổ tiên, mFile đính kèm:
gt_Cơ sở vanhoavietnam.pdf



