Giáo án Văn học 8 - Bài 2

1.Mục tiêu:

Sau khi học xong bài này, học sinh đạt được:

1.1. Kiến thức:

 - Biết được những thông tin cơ bản về tác giả, tác phẩm tiêu biểu của Yên Bái trước 1975.

 - Hiểu được giá trị nội dung, nghệ thuật của một tác phẩm văn học Yên Bái trước 1975.

1.2. Kĩ năng:

 - Biết cách sưu tầm, tìm hiểu để biết những thông tin cơ bản của các tác giả, tác phẩm văn học.

 - Biết phân tích tác phẩm văn học.

1.3. Thái độ: Quan tâm, tích cực tìm hiểu, trân trọng văn học viết địa phương.

 

doc10 trang | Chia sẻ: nguyenngoc | Lượt xem: 1871 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo án Văn học 8 - Bài 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
âm Thao(nay thuộc Phú Thọ), đỗ hương cống đời Lê Tương Dực rồi học Quốc Tử Giám, sắp đến kì thi hội gặp loạn nhà Mạc cướp ngôi, ông chạy lên ẩn dật tại làng Đại Đồng, phủ Yên Bình. Lúc bấy giờ hai anh em Vũ Văn Uyên, Vũ Văn Mật đang lấy vùng Đại Đồng thuộc châu Thu Vật làm căn cứ phù Lê chống Mạc. Khoảng năm 1565- 1569 anh em họ Vũ mời Nguyễn Hãng cùng nhiều nho sĩ quanh vùng đến làm thơ, phú ca ngợi phong cảnh Đại Đồng. Bài “Đại Đồng phong cảnh phú” của Nguyễn Hãng giành giải nhất được Vũ Văn Mật thưởng cho một thúng nhỏ bạc trắng (khoảng 2.000 lạng bạc). Sau khi Nguyễn Hãng mất, triều Lê Trung Hưng phong danh hiệu “ Thảo Mao ẩn sĩ”. Tác phẩm của Nguyễn Hãng còn để lại là hai bài phú Nôm: “Tịnh cư ninh thể phú” mô tả cuộc sống của các ẩn sĩ và “Đại Đồng phong cảnh phú” mô tả cảnh thiên nhiên hùng vĩ vùng Đại Đồng và tình yêu của mình, đề cao uy thế của anh em họ Vũ. Theo Lê Quý Đôn, Nguyễn Hãng còn là soạn giả của “ Thiên Nam vân lục” gồm ba quyển có 41 truyện bằng chữ Hán rút từ “ Lĩnh Nam chích quái”. Nguyễn Hãng mất tại quê hương, hiện nay phần mộ tại xã Xuân Lũng.
 Đại đồng(1) phong cảnh phú
Chưng xem:
Đặc khí thiêng liêng;
Nhiều nơi thanh lạ.
Non Xuân Sơn(2) cao thấp triều tây(3);
Sông Lôi Thuỷ(4) quanh co nhiễu tả(5).
Ngàn tây chìa cánh phượng, dựng thửa hư không;
Thành nước uốn hình rồng, dài cùng dãy đá(6).
Đùn đùn non Yên Ngựa(7), mấy trượng khoẻ thế kim thang(8);
Cuồn cuộn thác Con Voi(9), chín khúc bền hình quan toả(10).
Thêm có:
Lâu đài kề nước;
Hoa cỏ hướng dương(11).
Thược dược khéo muời phần tươi tốt,
Mẫu đơn khoe hết bực giàu sang(12).
Hây hây ngõ hạnh, tường đào, quanh nhà Thái tổ(13)
Thay thảy đường hoè, dặm liễu, hóng gió thiều quang.
Má hồng điểm thức yên chi(14), đầy vườn hạnh, xem bằng quốc sắc;
Quần lục đượm mùi long não, dãy tường lan, nức những thiên hương(15)
Lại có nơi:
Tiện nẻo vẵng lai;
Ra(16) nơi thành thị.
Tán(17) đầu khăn hợp khách bốn phương;
Xe dù ngựa dong đường thiên lý
Đủng đỉnh túi thơ, bầu rượu, nặng cổ thằng hề(18);
Dập dìu quần sả(19), áo nghê(20), dầu lòng con tý(21).
Diên đồi mồi(22), châu châu ngọc ngọc, nhiều chốn phồn hoa;
Viện thu thiên(23), ỷ ỷ la la(24), mười phần phú quý.
Xem phong cảnh chỉn(25) đã khác thường;
Gẫm tạo vật thật đà có ý.
Thửa mắc(26):
Trời sinh chúa thánh;
Đất có tôi lành.
Xem ngôi kiền(27) đòi thời mở vận;
Phép hào sư(28) lấy luật dựng binh.
Đất tam phân(29) có thửa hai, chốn chốn đều về thanh giáo(30);
Nhà bốn bể vầy làm một, đâu đâu ca xướng thái bình.
Chín lần nhật nguyệt làu làu, cao đường hoàng đạo(31)
Nghìn dặm sơn hà chễm chễm, khoẻ thế vươn thành(32).
Hình thế ấy khen nào còn xiết;
Phong cảnh này thực đã nên danh !
	 Thi văn Việt Nam – Hoàng Xuân Hãn
Sông Nhị – Hà Nội, 1951
(Dẫn theo cuốn “Nguyễn Hãng tác phẩm” Nguyễn Văn Toại (Chủ biên), – Nhà xuất bản Văn hoá thông tin- Hà Nội 2007)
Chú thích:
ờ Phú là một thể loại văn học cổ, thường là văn xuôi, có vần dùng để tả cảnh vật, phong tục hay bày tỏ cảm xúc, thái độ. Có hai loại phú. Phú cổ thể như một bài văn xuôi có vần, kết cấu linh hoạt, đoạn mạch không cần chặt chẽ. Phú cận thể (còn gọi là phú đường luật), có bố cục chặt chẽ (thường có 6 phần). Câu văn của phú thường là câu biền ngẫu (câu văn có 2 vế, đỗi xứng nhau).
(1). Đại Đồng: Tên địa danh, thuộc phủ Yên Bình. Khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, anh em Vũ Văn Uyên, Vũ Văn Mật chiếm giữ Đại Đồng, chống lại nhà Mạc. Họ Vũ, một mặt giúp binh lương cho Lê Trang Tông(khởi sự ở Thanh Hoá), một mặt củng cố nội bộ, cho nên khi ấy Đại Đồng là một vùng nổi tiếng phồn vinh, nhân dân tụ họp đông đúc, buôn bán thịnh vượng, là đô hội lớn của phiên trấn về mặt tây.
(2). Xuân Sơn: Tên quả núi trong dãy núi Voi ở Yên Bình.
(3). Triều Tây: Chầu về phía tây, phía trấn Đại Đồng.
(4). Lôi Thuỷ: Chính là sông Chảy, chảy qua Yên Bình, Đoan Hùng.
(5). Nhiễu tả: Nhiễu là vòng quanh; tả là bên trái. Trấn Đại Đồng ở bên phải, sông Chảy chạy quanh phía trái trấn Đại Đồng.
(6). Thành nước: Là thành xây bên bến nước. “Dãy”, có bản chép chữ “là”.
(7). Non Yên Ngựa: Dãy núi ở ngay sát trấn Đại Đồng.
(8). Kim thang: Do chữ “ Kim thành, thang trì” trong sách Hán Thư (thành bằng đồng, hào chứa nước sôi), ý nói thành trì không thể phá nổi.
(9). Thác Con Voi: xem số 2.
(10). Quan toả: Quan là cửa, toả là khoá, ý nói phòng thủ vững chắc.
(11). Hướng dương: Chầu về mặt trời. Câu này cũng nh câu thứ hai có ý ca tụng anh em họ Vũ.
(12). Mẫu đơn khoe hết bực giàu sang – do câu: “Mẫu đơn hoa chi phú quý giả dã” ngụ ý mẫu đơn là loại hoa phú quý trong các loại hoa.
(13). Thái tổ: Đây là chỉ Vũ Văn Uyên, khi đã chết và Vũ Văn Mật lên thay. Chữ Thái tổ thường dùng để đặt miếu hiệu cho các vua sáng nghiệp –Vũ Văn Uyên tuy chưa làm vua nhưng cũng đã sáng lập ra cơ nghiệp cát cứ của họ Vũ ở Tuyên Quang. Câu này có ý tôn quá mức.
(14). Yên chi: Thứ cây có hoa đỏ dùng để chế sáp hay phấn hồng cho phụ nữ trang điểm.
(15). Thiên hương: Hương trời, dùng chỉ người đẹp.
(16). Có bản chép chữ “là”.
(17). Tán: Người Mán đội khăn hình tròn to vành vạnh như cái tán.
(18). Thằng hề: Hề đồng – kẻ theo hầu các Nho sĩ.
(19). Quần sả: Có bản chép là quần trả, quần mầu biếc như lông chim trả(còn gọi là chim bói cá).
(20). áo nghê: áo màu cầu vồng
(21). Con tý: Con gái
(22). Diên: Tiệc. Đồi mồi- có lẽ là chén đựng rượu bằng đồi mồi.
(23). Thu thiên: Cây đu
(24). ỷ la: Vóc lụa
(25). Chỉn: Tiếng cổ có nghĩa vốn, rất, lắm
(26). Thửa mắc: Thửa là “ấy”, từ chỗ ấy; mắc là “bởi”, “với”; thửa mắc cũng như vì thế cho nên. Có bản chép là thửa mặc.
(27). Ngôi kiền: Kiền là quẻ thứ nhất trong bát quái của Kinh dịch, tượng trời cũng là tượng vua; ngôi kiền chỉ ngôi vua.
(28). Sư : Tên một quẻ trong Kinh dịch, nói về việc ra quân có câu “sư suất dĩ luật”, nghĩa là quân xuất chinh phải có luật.
(29). Tam phân: Chia ba- khi đó đất nước ta bị chia sẻ giữa các chúa phong kiến. Nhà Mạc ở miền đồng bằng và miền đông Bắc Bộ, Lê – Trịnh ở Trung Bộ, họ Vũ ở Tuyên Quang, Hà Giang, Lào Cai. Tác giả đã tôn họ Vũ một cách quá đáng nên nói rằng đã có hai phần ba thiên hạ.
(30). Thanh giáo: Thanh danh và giáo hoá của nhà vua. Đây chỉ thanh giáo của họ Vũ.
(31). Hoàng đạo: Đường mặt trời đi, ở đây tác giả có ý tôn họ Vũ như mặt trời cao sáng.
(32). Vương thành: Thành nhà vua, chỉ trấn Đại Đồng. Tác giả có ý tôn họ Vũ là bậc vương giả cho nên gọi Đại Đồng là Vương thành
Câu hỏi đọc – hiểu:
1. Em hãy đọc kĩ từ đầu đến “thiên hương” và tìm hiểu cảnh vật của châu Thu Vật, trấn Đại Đồng, căn cứ của anh em họ Vũ được miêu tả như thế nào? Những cảnh vật được miêu tả ấy đã thể hiện cảm xúc, thái độ gì của Nguyễn Hãng.
2. Em có nhận xét gì về thể loại phú (một thể loại văn học cổ) ?
2.3. Nhà văn Hoàng Hạc và đoạn trích truyện ngắn “Trận mưa rào tháng hai”.
- Hoàng Hạc (15/ 2/ 1932- 10/1999)
Tên khai sinh: Hoàng Văn Hạc.
Bút danh: Hoàng Hạc.
Quê quán: Bình Hanh, Yên Bình, Tuyên Quang (nay là Xuân Lai, Yên Bình, Yên Bái)
Dân tộc: Tày
Trình dộ chuyên môn: Đại học viết văn Nguyễn Du
Nguyên là:
- Cán bộ Ty Tài chính, cán bộ tổ chức Tỉnh uỷ Tuyên Quang.
- Phó Giám đốc Sở Văn hoá - Thông tin Hoàng Liên Sơn
- Uỷ viên thường trực Ban vận động thành lập Hội Văn học - Nghệ thuật Hoàng Liên Sơn (1976 - 1979).
- Hội phó Hội Văn học – Nghệ thuật Hoàng Liên Sơn (1979 - 1980).
- Hội trưởng Hội Văn học – Nghệ thuật Hoàng Liên Sơn (1984- 1986)
- Uỷ viên Ban chấp hành Liên hiệp các hội Văn học – Nghệ thuật Việt Nam.
- Hội viên Hội Văn học – Nghệ thuật Khu tự trị Tây Bắc (1979 - 1991).
	- Hội viên Hội nhà văn Việt Nam (1980).
	- Hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam khoá I.
	- Hội viên Hội Văn học các dân tộc Việt Nam (1983).
Giải thưởng:
	- Giải thưởng Văn học - Nghệ thuật Yên Bái: Giải đặc biệt cho tuyển tập văn xuôi( 1998)
	- Huy chương vì sự nghiệp Văn học – Nghệ thuật Việt Nam của Uỷ ban toàn quốc liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật Việt Nam ( 1997).
Tác phẩm chính:
	- Ké Nàm - Tập truyện ngắn (1964)
	- Hạt giống mới - Truyện ký (1983)
	- Sông gọi - Tiểu thuyết (1986)
	- Xứ lạ Mường trên - Tự truyện (1989)
	- Khảm hải - Trường ca dân gian, Sưu tầm, dịch từ tiếng Tày (1962,1964)
	- Hươu và rùa- Truyện cổ dân gian, Sưu tầm (1962)
	- Cái ống cọn, Then bách điểu – Trường ca dân gian, Sưu tầm, dịch từ Tiếng Tày
(1995).
- Tuyển tập văn xuôi Hoàng Hạc – NXBVHDT (1999)
	- Đường lên dâng lễ tổ - Sưu tầm, dịch từ tiếng Tày NXBVHDT (2004) 
Trận mưa rào tháng hai
	 ( Trích )
	Bác Hảo tuổi ngoài năm mươi, người bác cân đối, sức lực. Nhà bác ở đầu đồng Bản Vai, một căn nhà sàn cột kê, ba gian nho nhỏ, gọn ghẽ. Sơm sớm, chống cánh cửa sổ lên là trông thấy những người tấp nập cày bừa trên cánh đồng trước cửa sổ. Liền đó, con suối Khuổi Biệc lượn vòng cung ôm lấy cánh đồng, ôm lấy nhà sàn của bác. Sau nhà, một dải đất thoai thoải ăn liền với quả núi thật bề thế. Quả núi ấy được nối liền với những lớp núi, dãy núi giăng hàng luỹ, xanh tươi mát mẻ. Giữa những lớp núi ấy, đồng ruộng, nhà sàn, bản nọ nối bản kia, càng đi sâu vào càng sầm uất.
	Suốt dải đất sau nhà là rừng vầu của bác. Nửa phía trên vầu đắng, còn toàn vầu ngọt. Tôi theo bác lên rừng vầu đào măng. Bác bảo phải mang dao kẻo vắt cắn không có gì giết. Vào rừng vầu của bác Hảo, tôi như lạc vào cánh rừng vầu tự nhiên. Những dãy vầu nhà trồng, cây nào cây ấy to mập, cứng cáp cao đều tăm tắp. Cả rừng cứ san sát một lượt.
	Bác Hảo bới rác quanh ngọn măng, lao mạnh lưỡi thuổng hai bên rồi bẩy mạnh, ngọn măng với cả gốc non bật lên khỏi mặt đất. Bác đập đập cho đất tơi rụng đi, cho vào soỏng , bước qua những ngọn măng thưa, đến những chỗ măng mọc dầy chi chít, bác tiếp tục đào.
	- Măng thì phải đào chỗ nào dày, phải tỉa bớt đi, nó mới mọc nhiều, cây mới to và cứng cáp - Bác Hảo nói- Chứ có người không biết, có măng mà không dám đào, nó chả mọc đâu cháu ạ! Người ta thì thích ăn măng vầu ngọt, nhưng cây vầu ngọt không giá 

File đính kèm:

  • docBAI 2.doc
Giáo án liên quan