Đề tài Phương pháp dạy học chính tả cho học sinh lớp 5
Xã hội Việt Nam hiện nay đã có những thay đổi vượt bậc. Kinh tế phát triển với nhiều ngành nghề kinh doanh mới, nhiều bệnh viện, trường học đạt chuẩn quốc tế, đòi hỏi con người ai cũng phải nâng cao tri thức hơn. Muốn như thế, chúng ta – những người làm công tác giáo dục phải có sự đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học để đào tạo ra những con người vừa có chuyên môn, tri thức vững vàng, vừa có nhân cách tốt.
Bậc tiểu học là bậc học đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách ở học sinh, là bậc học cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về tự nhiên – xã hội. Trang bị những phương pháp và kĩ năng ban đầu về hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, bồi dưỡng, phát huy tình cảm, thói quen và đức tính tốt đẹp của con người Việt Nam thông qua các môn học. Đặc biệt là môn Tiếng Việt nói chung và phân môn chính tả nói riêng, đã rèn cho học sinh một số kĩ năng ( nghe, nói, đọc, viết ) và các kĩ năng tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh, thay thế, lược bỏ, bổ sung, đồng thời cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về ngôn ngữ, về Tiếng Việt, về văn hoá, về tự nhiên xã hội. Phân môn chính tả chiếm một vị trí và nhiệm vụ rất quan trọng nhằm giúp học sinh hình thành năng lực và thói quen viết đúng Tiếng Việt – Tiếng Việt chuẩn. Phân môn chính tả trong nhà trường còn giúp học sinh nắm vững các qui tắc chính tả. Ngoài ra phân môn này còn rèn cho học sinh một số phẩm chất như tính cẩn thận, óc thẩm mĩ, bồi dưỡng cho các em lòng yêu quí Tiếng Việt và chữ Việt.
Trường Tiểu học Sông Nhạn thuộc vùng sâu vùng xa nên khi phát âm như thế nào thì các em viết vậy. Điều này ảnh hưởng nhiều đến chất lượng học tập của học sinh. Một trong những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng viết sai chính tả hiện nay. Các em không nắm vững qui tắc ghi âm của chữ quốc ngữ, ít được biết đến “mẹo” luật chính tả cơ bản, lỗi do cẩu thả của người viết, cơ bản do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương nên đa số học sinh tiểu học viết sai chính tả.
Đối với giáo viên tiểu học, việc dạy chính tả dừng ở mức độ truyền đạt hết nội dung của sách giáo khoa, qua bài viết nhưng chưa chú trọng đến phương ngữ vùng miền đang ở. Hơn nữa, việc nắm các lỗi chính tả phổ biến của lớp để xác định những trọng điểm chính tả cần dạy cho học sinh chưa được quan tâm đúng mức đã dẫn đến hạn chế về kết quả giảng dạy phân môn chính tả hiện nay.
Để giải quyết một phần mâu thuẫn của vấn đề này trong phạm vi địa phương của trường đang dạy, tôi mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu “ Phương pháp dạy học chính tả cho học sinh lớp 5” làm đề tài nghiên cứu sư phạm cho năm học 2013-2014 này.
i với loại bài chính tả nhớ-viết, giáo viên cho học sinh đọc lại bài đã học thuộc lòng để ủng cố; nếu bài dài, học sinh chưa thuộc hết, có thể yêu cầu nhớ-viết 2,3 khổ thơ đã thuộc kĩ ( rút ngắn bài chính tả nhớ-viết), giáo viên cần giữ nhịp cho cả lớp viết kịp tốc độ, không để tình trạng học sinh ngồi chơi vì viết không kịp tốc độ đọc của giáo viên hoặc vì không thuộc bài. Phần chấm chữa bài chính tả cũng đòi hỏi giáo viên đầu tư nhiều thời gian và công sức, dành thời gian chữa bài tỉ mỉ cho từng em; tránh nhận xét chung chung. Giáo viên cần động viên khen ngợi kịp thời những tiến bộ dù rất nhỏ của học sinh; có biện pháp giúp đỡ kịp thời đối với những học sinh yếu để các em theo kịp các bạn, không chán nản. Phần hướng dẫn học sinh làm bài tập chính tả: thời gian làm bài tập chnh1 tả có thể rút ngắn để tăng thời gian cho phần Luyện viết chính tả. Giáo viên lưu ý cần tìm ra những lỗi chính tả học sinh lớp mình thường mắc để chọn bài tập chính tả phù hợp hoặc soạn thêm các bài tập khác để rèn viết đúng các âm, vần, tiếng mà học sinh hay mắc lỗi, thay thế bài chính tả lựa chọn trong sách giáo khoa; giáo viên cũng có thể giảm độ khó hoặc gợi ý, giải đáp thắc mắc cho những học sinh chưa tiếp thu kịp. IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP 1. Giải pháp 1 : Khai thác và sử dụng đồ dùng dạy học một cách có hiệu quả: Qua quá trình đứng lớp, tôi nhận thấy: trong giảng dạy phân môn chính tả, đồ dùng thiết bị cấp trên đưa về còn ít . Chính vì vậy, nên rất khó khăn cho việc giảng dạy của giáo viên. Đây là một điều mà tôi trăn trở, suy nghĩ phải làm sao để có cách dạy mà học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Từ đó tôi có ý tưởng là chúng ta nên làm đồ dùng dạy học phục vụ cho tiết dạy học chính tả như làm băng reo, bìa cứng, bút lông, bảng con, bảng phụ, mẫu chữ hoa, chữ thường. Khi cho học sinh thực hành luyện viết chữ khó vào bảng con, giáo viên phát lệnh và giao việc cho từng nhóm viết, sau đó cầm bảng con lên bảng cho học sinh dưới lớp nhận xét đúng sai và thi đua giữa các nhóm. Khi làm bài tập chính tả có thể sử dụng băng reo và bút lông để làm. Đồ dùng dạy học của từ môn này cho môn kia hỗ trợ cho nhau để hiệu quả tiết dạy ngày một nâng cao, tích cực hơn, gây được hứng thú trong học tập. Việc tự làm và thiết kế đồ dùng dạy học là một hình thức nâng cao trong phương pháp giảng dạy vì có đầu tư về tri thức và nội dung bài dạy. Vì vậy tôi nghĩ luôn có ý tưởng làm mới đồ dùng dạy học bằng cách từng bài hoặc từng chương có thể nghiên cứu và làm những đồ dùng phục vụ cho giảng dạy, từ đồ dùng trực quan giúp học sinh hiểu bài nhanh hơn và viết đúng chính tả. Ví dụ: Khi dạy bài tập chính tả âm, vần ( tiết 14 ) “ Phân biệt tr/ ch” Viết những từ ngữ chứa các tiếng trong bảng sau: tranh/chanh , trưng/chưng, trúng/chúng, trèo/chèo. Giáo viên chia 4 nhóm và phát cho mỗi nhóm một băng reo và bút lông, sau đó phát lệnh cho học sinh tự làm rồi gắn lên trên bảng phụ giáo viên đã kẻ sẵn. Nhóm nào viết đúng và nhanh hơn thì sẽ được tuyên dương. 2. Giải pháp 2 : Vận dụng một số nguyên tắc dạy chính tả một cách linh hoạt và khéo léo: 2.1 Nguyên tắc dạy chính tả theo khu vực: Xuất phát từ tình hình thực tế mắc lỗi chính tả của học sinh ở khu vực Đông Nam Bộ là hay viết sai âm đầu (tr/ch), âm cuối (n/ng,…), vần(ao/au,),…nên trước khi dạy bài chính tả, giáo viên cần tiến hành điều tra cơ bản để nắm vững lỗi chính tả phổ biến của học sinh từ đó lựa chọn nội dung giảng dạy thích hợp, nhất là đối với hình chính tả so sánh, có thể điều chỉnh những nội dung giảng dạy trong sách giáo khoa cho phù hợp với lớp mình. Đối với lớp tôi, các em sai nhiều ở âm đầu tr/ch, vần ao/au nên khi dạy bài chính tả “ Chuỗi ngọc lam” ( Tiết 14 ) tôi chọn bài tập 1 cho các em làm. 2.3 Nguyên tắc kết hợp chính tả có ý thức với chính tả không có ý thức: Trong quá trình dạy chính tả cho học sinh, giáo viên không chỉ sử dụng một phương pháp mà phải sử dụng phối hợp hai phương pháp này một cách hợp lí mới đạt hiệu quả dạy học cao. Phương pháp không có ý thức còn phát huy tác dụng khi giáo viên hướng dẫn học sinh ghi nhớ các hiện tượng chính tả có tính chất võ đoán không gắn với một qui luật, qui tắc nào như viết phân biệt tr/ch, ao/au,…trong nhà trường, giáo viên cần sử dụng khai thác tối đa phương pháp có ý thức. Muốn vậy, giáo viên cần phải được trang bị những kiến thức về ngữ âm học, về từ vựng – ngữ nghĩa học có liên quan đến chính tả. Cụ thể, giáo viên phải biết vận dụng những kiến thức về ngữ âm học Tiếng Việt vào việc phân loại lỗi chính tả, phát hiện đặc điểm của từng loại lỗi; nhất là việc xây dựng các qui tắc chính tả, các “mẹo” chính tả, giúp học sinh ghi nhớ một cách khái quát có hệ thống. Ví dụ: - Cung cấp cho học sinh nắm vững qui tắc viết hoa tên riêng tiếng nước ngoài: khi viết tên người nước ngoài, ta viết hoa chữ cái đầu của mỗi bộ phận tạo thành tên đó. Nếu bộ phận tạo thành tên gồm nhiều tiếng thì giữa các tiếng cần có gạch nối ( Gioan, Pi – e,…) Khi đứng trước âm đệm – viết là u, thì âm “cờ” viết là “q”. Dựa vào kiến thức về từ vựng – ngữ nghĩa để lập các qui tắc, các “mẹo” chính tả: + Những đồ dùng trong gia đình hầu hết được viết là “ch” ( chai, chén, chăn, chiếu, chậu,…). + Chỉ có “ch” mới kết hợp với những vần bắt đầu bằng: oa, oă, oe,.. (choáng mắt, loắt choắt, …) + Từ láy phụ âm đầu phần lớn là “ ch” ( chan chát, chăm chỉ, chập chờn, chậm chạp,…) + Những từ chỉ quan hệ gia đình được viết bằng phụ âm đầu “ch” (cha, chú, chị, chồng , cháu,…). + Những từ chỉ vị trí viết với phụ âm đầu “tr” ( trên, trước, trong,…) + Để phân biệt âm đầu s/x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu bằng s: Sả, si, sồi, sứ, sung, sắn, sim, sao, su su, sầu đâu, sa nhân, sơn trà, sặt, sậy, sấu, sến, săng lẻ, sầu riêng, so đũa… sam, sán, sáo, sâu, sên, sếu, sò, sóc, sói, sứa, sáo sậu, săn sắt, sư tử, sơn dương, san hô… + Để phân biệt dấu thanh hỏi/ngã: Các từ gộp âm chỉ mang thanh hỏi không mang thanh ngã: - Trong + ấy = trỏng. - Trên + ấy = trển - Cô + ấy = cổ - Chị + ấy = chỉ - Anh + ấy = ảnh - Ông + ấy = ổng - Hôm + ấy = hổm - Bên + ấy = bển + Luật bổng - trầm: Trong các từ láy điệp âm đầu, thanh (hay dấu) của 2 yếu tố ở cùng một hệ bổng (ngang/sắc/hỏi) hoặc trầm (huyền/ngã/nặng). Để nhớ được 2 nhóm này, giáo viên chỉ cần dạy cho học sinh thuộc 2 câu thơ: Em Huyền mang nặng, ngã đau Anh Ngang sắc thuốc, hỏi đau chỗ nào Nghĩa là đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh huyền, nặng, ngã thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh ngã, nếu yếu tố đứng trước mang thanh ngang, sắc, hỏi thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi (hoặc ngược lại). Ví dụ: Bổng Ngang + hỏi: Nho nhỏ, lẻ loi, trong trẻo, vui vẻ… Sắc + hỏi: Nhắc nhở, trắng trẻo, sắc sảo, vắng vẻ… Hỏi + hỏi: Lỏng lẻo, thỏ thẻ, hổn hển, thủ thỉ, rủ rỉ… Trầm: Huyền + ngã: Sẵn sàng, lững lờ, vồn vã Nặng + ngã: Nhẹ nhõm, đẹp đẽ, mạnh mẽ, lạnh lẽo,… Ngã + ngã: Dễ dãi, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo… + Để phân biệt các vần dễ lẫn lộn: Một số từ có vần ênh chỉ trạng thái bấp bênh, không vững chắc: Gập ghềnh, khấp khểnh, chông chênh, lênh đênh, bập bềnh, chếnh choáng, chệnh choạng, lênh khênh, bấp bênh, công kênh… Hầu hết các từ tượng thanh có tận cùng là ng hoặc nh: oang oang, đùng đoàng, loảng xoảng, đoàng đoàng, sang sảng, rổn rảng, ùng oàng, quang quác, ăng ẳng, ằng ặc, oăng oẳng, răng rắc, sằng sặc, pằng pằng, eng éc, beng beng, chập cheng, leng keng, reng reng, phèng phèng, lẻng kẻng, lẻng xẻng, ùng ùng, đùng đùng, thùng thùng, bình bịch, thình thịch, thình thình, rập rình, xập xình, huỳnh huỵch… Vần uyu chỉ xuất hiện trong các từ: khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã khuỵu, khuỵu chân; vần oeo chỉ xuất hiện trong các từ ngoằn ngoèo, khoèo chân Nguyên tắc phối hợp giữa phương pháp tích cực với phương pháp tiêu cực: Bên cạnh phương pháp tích cực ( cung cấp cho học sinh các qui tắc chính tả, hướng dẫn học sinh thực hành luyện tập nhằm hình thành các kĩ xảo chính tả), cần phối hợp áp dụng phương pháp tiêu cực (tức là đưa ra những trường hợp viết sai chính tả, hướng dẫn học sinh phát hiện sửa chữa rồi từ đó hướng học sinh đi đến cái đúng). Nói cách khác, việc hướng dẫn học sinh viết đúng chính tả cần tiến hành đồng thời với việc hướng dẫn học sinh loại bỏ các lỗi chính tả trong các bài viết. Ví dụ: Khi dạy bài chính tả “ Chuỗi ngọc lam” ( tiết 14 ) Ơ hoạt động củng cố, giáo viên có thể đưa ra dạng bài tập sau: Gạch bỏ từ viết sai chính tả trong các từ ngữ sau: bức chanh, cây cau, lao nhà, mào gà, mào đỏ, hoa màu, mái trèo. Sửa lại những từ viết sai đó cho đúng chính tả. Để học sinh viết đúng chính tả, một biện pháp nữa mà tôi muốn nêu ra là: Giúp học sinh nắm vững nghĩa từ bằng cách phân tích, so sánh, mở rộng vốn từ và dùng từ đặt câu. Qua đó còn tạo cho các em biết cách tra từ điển chính tả và có thói quen lập sổ tay chính tả, dần dần hình thành cho các em kĩ năng, kĩ xảo viết đúng chính tả. Khi dạy bài chính tả “ Chuỗi ngọc lam” ở hoạt động hướng dẫn học sinh viết chính tả, những từ các em dễ viết sai là “ trầm ngâm”, “lúi húi”, “rạng rỡ”; giáo viên có thể phân biệt cho học sinh “trầm” và “chầm”, yêu cầu học sinh tìm thêm từ có tiếng “trầm” ( trầm tư, trầm bổng,…) và từ có tiếng “chầm” ( chầm chậm,…). Tóm lại : - Việc phát hiện lỗi chính tả, thống kê, tìm nguyên nhân gây lỗi, từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục là rất cần thiết, không thể thiếu trong quá trình dạy - học Tiếng Việt. Nhưng không phải chỉ đưa ra các biện pháp khắc phục là có thể thực hiện một cách có hiệu quả. Sửa chữa, khắc phục lỗi chính tả là cả một quá trình lâu dài, đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, bền bỉ, không được nóng vội. Bởi vì có những học sinh tiến bộ ngay trong vài tuần nhưng cũng có những học sinh thì sự tiến bộ diễn ra rất chậm, không phải vài tuần, có khi vài tháng, thậm chí cả một học kỳ. Nếu giáo viên không biết chờ đợi, nôn nóng thì chắc chắn sẽ thất bại. - Ngay từ khi các em mới bắt đầu “làm quen” với Tiếng Việt, giáo viên nên hướng dẫn các em thật tỉ mỉ về các quy tắc chính tả, quy tắc kết hợp từ, quy tắc ghi âm chữ quốc ngữ… tránh trường hợp học sinh vì t
File đính kèm:
- SANG KIEN CHINH TA LOP 5.doc