Đề tài Một số giaỉ pháp thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực
I/ HOÀN CẢNH NẢY SINH:
Thực hiện lời dạy của Bác Hồ “Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt, học tốt”, thời gian qua, ngành giáo dục đã phát động nhiều phong trào thi đua. Cùng với hai cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” năm 2006, “ Mỗi thầy cô giáo là tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo” năm 2007. Ngày 22/7/2008 BGD ĐT đã ban hành Chỉ thị số 40/2008/CT-BGD ĐT về việc phát động thi đua xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông giai đoạn 2008-2013. Mục tiêu của phong trào thi đua là nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong và ngoài nhà trường để xây dựng môi trường giáo dục an toàn, thân thiện, hiệu quả phù hợp với điều kiện của địa phương, hình thành, phát huy tính chủ động, tích cực, sự sáng tạo của học sinh trong học tập và các hoạt động xã hội.
Trường tiểu học Thành Hải 2 đóng trên địa bàn vùng ven khá xa trung tâm thành phố Phan Rang; điều kiện kinh tế xã hội hết sức khó khăn: nền kinh tế thuần nông, có 50% đồng bào dân tộc Chăm sinh sống. Trình độ dân trí thấp, chất lượng và hiệu quả giáo dục những năm qua còn rất thấp so với mặt bằng chung của thành phố. Nhà trường thực hiện phong trào xây dựng “trường học thân thiện học sinh tích cực” trong một điều kiện hết sức khó khăn. Trách nhiệm của người hiệu trưởng đối với việc thực hiện phong trào thi đua này là rất quang trọng; nó quyết định đến việc thành công hay thất bại của phong trào. Chính vì vậy mà bản thân tôi đã rất trăn trở tìm mọi giải pháp để thực hiện các mục tiêu , nhiệm vụ, yêu cầu, nội dung mà cuộc vận động đề ra. Qua 2 năm thực hiện, tôi đã rút ra được những kinh nghiệm quý báu và đã mang lại hiệu quả thiết thực. Tôi chọn đề tài này nhằm góp 1 tiếng nói chung với toàn ngành trong việc thực hiện thắng lợi phong trào thi đua xây dựng “ trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
rất khó khăn). Sau khi làm xong, tôi đã tổ chức buổi chấm điểm trang trí lớp dưới hình thức Hội thi trang trí lớp có mời Phòng giáo dục tới thăm quan. Đồng chí Trần Văn Nghĩa, phó phòng giáo dục đã đến và đã thấy được kết quả mà giáo viên chúng tôi đã làm được trong học kỳ II năm học 2008-2009. Sau thực tế sử dụng không gian lớp học được 1 năm, tôi đã tổ chức một buổi hội thảo giữa các GVCN để mỗi giáo viên trình bày kinh nghiệm của mình. Cuộc hội thảo này đã mang lại hiệu quả rất lón, giáo viên học hỏi lẫn nhau và nó đã chứng minh rằng sử dụng không gian lớp học như một phương tiện giáo dục, giao tiếp, có tác dụng to lớn trong việc giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cũng như nâng cao chất lượng dạy học của giáo viên và học sinh. Đối với không gian ngoài phòng học là hành lang và các bồn hoa trước lớp học, tôi đã dùng kinh phí huy động được để mua cây cảnh, cho học sinh trồng hoa, kẻ các khẩu hiệu tuyên truyền nội dung cuộc vận động như: “Mỗi ngày đền trường là một ngày vui”, “Tiên học lễ, hậu học văn”, “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”, “Tất cả vỉ học sinh thân yêu”… mua dây hoa trang trí vào các dịp lễ hội. Tất cả những điều này đã tạo nên cho nhà trường một môi trường xanh-sạch-đẹp, mát mẻ, khung cảnh thân thiện . Khách đến trường đều cảm nhận được môi trường sư phạm rất thích hợp trong việc giáo dục học sinh. Nhà trường có một khuôn viên rất rộng(7211m2), đất vườn còn trống rất nhiều. Không trông chờ vào cấp trên, tôi đã liên hệ với vườn ươm huyện Bác Ái xin giống cây trồng về để trồng vào đầu mùa mưa năm 2009. Tôi đã huy động được 15 công từ phụ huynh học sinh để đào hố trống cây. Gần 100 cây gồm xà cừ, trôm, phượng đã được trồng ngay hàng thẳng lối và được giao cho các lớp 4-5 chăm sóc. Mỗi lớp chăm sóc đều được gắn bảng tên để thi đua. Những lớp nào có hàng cây tốt, em nào chăm cây tốt nhất sẽ được tuyên dương, khen thưởng. Việc làm này đã khuyến khích sự thi đua giữa các lớp và các em học sinh với nhau(có học sinh ngày 2 tết vẫn đến trường tưới cây). Kết quả là 100% số cây trồng sống xanh tốt đã tạo cho trường một màu xanh mát mẻ. Để có một môi trường sạch sẽ như hiện nay ở trường tôi là một vấn đề không đơn giản bởi vì ở đây cuộc sống còn khó khăn, trình độ dân trí thấp, có 50% học sinh dân tộc; ý thức giữ gìn môi trường của học sinh chưa cao. Tôi đã phải tổ chức cho Tổng phụ trách đội, các GVCN phát động phong trào thi đua “Giữ cho ngôi trường không có rác”. Tôi đã bố trí rất nhiều giỏ rác: Mỗi phòng học đều có 2 giỏ, một ở trong lớp và 1 ở ngoài hành lang. Còn ở sân trường thì bố trí các giỏ rác ở nơi thuận tiện để học sinh có chỗ bỏ rác. Học sinh cờ đỏ sẽ kiểm tra, giám sát chặt chẽ vấn đề này. Sau gần một năm phát động, ý thức của các em học sinh thay đổi rõ ràng, hầu hết các em không xả rác bừa bãi. Khi thấy rác, các em còn tự giác nhặt bỏ vào giỏ rác. Từ sự chuyển biến tích cực này mà nhà trường luôn sạch sẽ, thoáng mát, các em học sinh có được một môi trường học tập, vui chơi rất thoải mái. 2.2 Tổ chức dạy học có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh: Lúc tôi mới lên nhận bàn giao công tác hiệu trưởng vào đầu năm học 2008-2009, khi kểm tra chất lượng đầu năm, tỷ lệ học sinh yếu 2 môn Toán, Tiếng việt là trên 50%, cá biệt có những lớp 80-90%, đặc biệt là học sinh dân tộc. Đây là một nỗi trăn trở lớn lao đối với bản thân tôi. Tôi đã xuống tận các tổ để sinh hoạt chuyên môn với giáo viên; cho giáo viên trình bày nguyên nhân tại sao học sinh học yếu như vậy? giải pháp khắc phục điều này ra sao? Đa số giáo viên đổ lỗi cho hoàn cảnh khách quan: gia đình không quan tâm, bản thân học sinh không cố gắng, không ham học; các em phải phụ giúp gia đình làm việc nhà nên không có thời gian học tập; học sinh dân tộc khó hòa nhập, Tiếng việt còn yếu… tất cả những yếu tố trên đều đúng. Nhưng tôi đặt lại vấn đề là trách nhiệm của nhà trường và của giáo viên ra sao? Chúng ta đã làm gì với PHHS? Với các em học sinh? Tại sao các em lại chán học, bỏ hoc? Phải chăng giáo viên chưa cải tiến phương pháp giảng dạy tốt, chưa gần gũi học sinh, chưa biến mỗi giờ học thành niềm vui để các em đỡ chán học, ham học. Tôi đã đề nghị giáo viên tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh ; tăng cường học tập theo nhóm, đưa trò chơi vào các tiết học. Tôi đã chọn một số giáo viên giỏi để xây dựng bài dạy mẫu. Hiệu phó chuyên môn và tổ trưởng trực tiếp tư vấn về phương pháp giảng dạy, các hình thức tổ chức dạy học sẽ áp dụng… sau đó tiến hành dạy cho cả trường xem rồi tổ chức góp ý thảo luận bổ sung những cái được và chưa được. Qua nhiều lần như vậy, giáo viên đã học tập được rất nhiều. Tôi đã tổ chức cho Ban giám hiệu, tổ trưởng, Công đoàn đi dự giờ thường xuyên để góp ý cho giáo viên trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Chính vì vậy mà đa số giáo viên đã nắm vững phương pháp dạy học mới, áp dụng nhiều hình thức tổ chức dạy học phong phú, phát huy được tính chủ động của học sinh; thu hút các em tích cực tham gia vào quá trình dạy học. Các em học sinh đã tự tin hơn, yêu trường, yêu lớp hơn; tình trạng học sinh chán hoc, bỏ học đã giảm hẳn. Đặc biệt tôi còn vận động được một nhà sư mở được 4 lớp học tình thương liên tục trong 2 năm (2008-2009 và 2009-2010) để dạy phụ đạo cho sinh yếu vào buổi thứ hai. Tại đây, tôi cũng đề nghị giáo viên áp dụng phương pháp dạy học mới, thu hút các em vào học tập để bổ sung kiến thức hổng. Nhờ vậy mà chất lượng học tập của các em được cải thiện. Các em không còn mặc cảm vì đọc yếu hay học tập yếu, nhất là đối với học sinh dân tộc. 2.3 Tổ chức “ rèn luyện kỹ năng sống” cho học sinh: Đây là một nội dung hết sức khó khăn khi nhà trường thực hiện cuộc vận động này. Các em học sinh ở đây, đặc biệt là học sinh dân tộc rất yếu về kỹ năng sống, nhất là kỹ năng giao tiếp. Tôi cùng với Tổng phụ trách đã xác định một số kỹ năng mà học sinh còn yếu như kỹ năng ứng xử giữa học sinh với học sinh, các em gọi nhau “mày, tao” kèm theo những tiếng nói tục chửi thề . Quan hệ giữa nam và nữ cũng khá cách biệt các em ít khi chơi chung, ngại tiếp xúc với nhau. Đặc biệt là các em học sinh dân tộc Chăm và Kinh còn phân biệt rất rõ ràng. Nếu có sự mâu thuẫn nào đó giữa hai em học sinh Chăm và Kinh thì các em học sinh Kinh sẽ bênh các em học sinh Kinh và ngược lại mà không phân biệt đúng sai. Kỹ năng ứng xử với giáo viên và người lớn tuổi rất yếu, các em rất biết ít thưa gửi cảm ơn và xin lỗi nói nhát gừng, thiếu chủ ngữ… Từ chỗ xác định những điểm yếu trên mà tôi đã chỉ đạo cho Tổng phụ trách đội, GVCN tăng cường các hoạt động giáo dục để rèn luyện kỹ năng sống cho các em. Ở trong lớp học, GVCN bố trí cho học sinh nam và nữ ngồi bên nhau. Giáo viên thường xuyên lồng ghép giáo dục ý thức đoàn kết nam nữ; tạo môi trường thân thiện trong học tập, phân nhóm học tập có nam và nữ . Khi tổ chức các trò chơi vào giờ sinh hoạt tập thể, thể dục, múa hát.. đều tạo điều kiện để các em học sinh nam và nữ giao tiếp với nhau. Trong quá trình giao tiếp, giáo viên dạy các em cách xưng hô thân mật, học sinh nam phải tôn trọng và giúp đỡ học sinh nữ, không nói tục chửi thề… Các lớp đều xây dựng các quy tắt ứng xử giữa các học sinh với nhau, nếu có học sinh vi phạm thì tổ trưởng nhắc nhở, nếu vi phạm lần hai trong tuần thì ghi sổ để báo cáo GVCN họp lớp nhắc nhở; nếu vi phạm nhiều lần thì kiểm điểm, báo cho PHHS… Việc làm này đã giúp học sinh cải thiện quan hệ với nhau. Các em học sinh đã biết sống thân thiện và giúp đỡ lẫn nhau. Riêng quan hệ giữa học sinh Kinh và Chăm, vào các tiết chào cờ, ngoại khóa, sinh hoạt lớp thì Hiệu trưởng, Tổng phụ trách, giáo viên chủ nhiệm thường xuyên giáo dục tình đoàn kết giữa hai dân tộc Kinh-Chăm. Mỗi tuần 1 lần tổ chức sinh hoạt tập thể với quy mô toàn trường, cứ hai lớp Kinh Chăm nhập lại tổ chức giao tiếp chơi trò chơi chung. Lúc đầu các em còn rất e dè, nhưng sau này, khi đã thành thói quen, các em đã mạnh dạn, tự tin và đối xử với nhau rất thân thiện; hiện tượng kỳ thị với nhau đã giảm hẳn. Riêng kỹ năng ứng xử với người lớn tuổi, đặc biệt là với giáo viên thì hiệu trưởng yêu cầu giáo viên chủ nhiệm dạy các em học sinh khi trả lời các câu hỏi phải thưa gửi, có đầu có cuối rõ ràng. Nếu học sinh nói chưa đạt, giáo viên phải uốn nắn ngay. BGH khi đi dự giờ đặt vấn đề giáo dục kỹ năng ứng xử của học sinh với giáo viên là một tiêu chí đánh giá xếp loại tiết dạy. Giáo viên đã chú ý hơn và các em học sinh đã tiến bộ nhiều trong giao tiếp với người lớn tuổi đặc biệt là đối với giáo viên. Ngoài việc giáo dục của GVCN thông qua các tiết dạy, tôi còn chỉ đạo cho tổng phụ trách đội tổ chức các buổi sinh hoạt chung toàn trường với chủ đề “ nói lời hay” . Tổng phụ trách chủ trì hướng dẫn học sinh giao tiếp như hỏi các em về kỹ năng ứng xử với người lớn rồi hỏi một số học sinh, yêu cầu các em trả lời. Sau khi học sinh trả lời để cho các em tự nhận xét bình luận đúng sai. Tổ chức cho học sinh đóng vai ông bà, cha mẹ, chú bác xây dựng một số tiểu phẩm để các em thực hành… Như vậy là từ giáo viên chủ nhiệm uốn nắn giáo dục kỹ năng sống thường xuyên trong các giờ học, đến việc tổ chức giao tiếp quy mô toàn trường đã giúp cho học sinh có được kỹ năng giao tiếp tốt, kỹ năng ứng xử phù hợp…Đặc biệt năm 2008 qua các mối quan hệ, tôi đã mời được nhà hát kịch TP HCM về trường giao lưu, tặng quà và biểu diễn vở kịch thiếu nhi rất sinh động và hấp dẫn về chủ đề giữ gìn vệ sinh môi trường. Buổi giao lưu và biểu diễn nghệ thuật đã giúp cho các em có 1 sân chơi bổ ích. Các em học sinh cùng với các anh chị diễn viên đoàn kịch đã cùng nhau giao tiếp. Khi các em có những lời nói chưa chuẩn các anh chị đã giúp các em chấn chỉnh sửa sai. Học sinh nhà trường đã được hưởng 1 buổi vui chơi bổ ích và hấp dẫn, đã học được rất nhiều điều về kỹ năng sống. Năm học 2009- 2010, nhân dịp Tết Trung Thu, nhà trường phối hợp với 1 số nhà hảo tâm đã thiết kế 1 buổi tối Trung Thu với những tiết mục kịch nói về sự tích Chú Cuội, Chị Hằng, các tiết mục văn nghệ các trò chơi dân gian… tất cả đã tạo nên 1 sân
File đính kèm:
- SANG K TRUONG HOC THAN THIEN.doc