Đề tài Cách làm bài văn nghị luận cho học sinh lớp 9 theo chuẩn kiến thức và kĩ năng” ở trường THCS Nguyễn Huệ , huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông

Trong chương trình ngữ văn ở bậc Trung học cơ sở, học sinh đã học về thể văn nghị luận. ở lớp 7 các em học được phép lập luận chứng minh và phép lập luận giải thích. Lớp 8 học tiếp về văn nghị luận, cách nói và viết bài văn nghị luận có sử dụng yếu tố biểu cảm, tự sự và miêu tả. Ở lớp 9 đã có sự kế thừa, nâng cao kiến thức về văn nghị luận. Các em học về nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích, nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ

Trong quá trình giảng dạy môn ngữ văn lớp 9, giáo viên giúp học sinh nắm vững các yêu cầu, cách làm bài nghị luận văn học ở từng kiểu bài, nhưng về kĩ năng viết bài nghị luận về văn học của học sinh chưa thật thành thạo, còn lúng túng, hành văn chưa mạch lạc, bố cục chưa rõ ràng, nhất là đối với đối tượng học sinh từ trung bình trở xuống. Cho nên khi giảng dạy, cần phải chú trọng giúp học sinh và định hướng trong việc rèn luyện kĩ năng làm bài cho học sinh, giúp học sinh biết cách làm bài, nhằm từng bước nâng cao chất lượng của bài viết và hiệu quả của việc giáo dục, đáp ứng yêu cầu của mục tiêu giáo dục hiện nay.

Xuất phát từ tình hình trên, bản thân tôi xin nêu một vài ý kiến, kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy với mục đích trao đổi cùng các bạn đồng nghiệp qua sáng kiến: “ Cách làm bài văn nghị luận cho học sinh lớp 9 theo chuẩn kiến thức và kĩ năng”.

 

doc15 trang | Chia sẻ: lethuong715 | Lượt xem: 660 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Cách làm bài văn nghị luận cho học sinh lớp 9 theo chuẩn kiến thức và kĩ năng” ở trường THCS Nguyễn Huệ , huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gt; phân tích, nhận xét, đánh giá từ dẫn chứng để làm sáng tỏ ý đã nêu ở câu chủ đề. Các câu này phải viết thành đoạn văn.
Ví dụ: (1) Anh thanh niên là người rất khiêm tốn. (2) Khi ông họa sĩ muốn vẽ chân dung của anh. (3) anh hào hứng giới thiệu về những con người đáng để vẽ hơn mình. (4) Đó là ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa vượt qua bao khó khăn vất vả để tạo ra những củ su hào to hơn, ngon hơn cho nhân dân; là anh cán bộ khí tượng dưới trung tâm suốt mười một năm chuyên tâm nghiên cứu và thiết lập bản đồ Sét. (5) Anh thấy đóng góp của mình bình thường nhỏ bé so với những con người ấy. (6) Anh thấy thấm thía sự hi sinh thầm lặng của những con người ngày đêm làm việc lo nghĩ cho đất nước ở nơi mảnh đất nghĩa tình Sa Pa này.
Như vậy: Câu (1) là câu chủ đề luận điểm.
 Câu (2) là câu chuyển để đưa dẫn chứng.
 Câu (3), (4) là dẫn chứng gián tiếp từ tác phẩm.
 Câu (5) và (6) là phân tích, nhận xét từ dẫn chứng của người viết.
Cái khó là học sinh không biết phân tích, nhận xét nên giáo viên cho học sinh đặt câu hỏi để trả lời như: Vì sao anh lại giới thiệu những con người khác ở Sa Pa? Anh nghĩ điều gì mà giới thiệu như vậy? Học sinh trả lời đúng, nghĩa là học sinh đã biết nhận xét, đánh giá.
Quy nạp là cách trình bày ngược với cách diễn dịch. Giới thiệu cách quy nạp để học sinh biết và viết đúng nhằm thay đổi thao tác lập luận trong khi làm bài. Học sinh xác định được đặc điểm, tính cách của nhân vật theo trình tự diễn biến của truyện thì học sinh lần lượt viết được đoạn văn ở phần thân bài.
* Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ:
Đầu tiên, giáo viên phải hình thành cho học sinh quy trình xây dựng đoạn khi phân tích một đoạn thơ, khổ thơ như sau:
(1) Nhận xét khái quát về nội dung của đoạn thơ, khổ thơ ấy (câu này gọi là câu dẫn) -> (2) Dẫn chứng đoạn thơ, khổ thơ -> (3) Giảng giải, cắt nghĩa (từ, ngữ, câu thơ) -> (4) Liên hệ, mở rộng, so sánh -> (5) Nhận xét cách sử dụng nghệ thuật và phân tích nghệ thuật ấy (chú ý vào các chi tiết nghệ thuật tiêu biểu, mà ở đó, các ý nghĩa độc đáo, tài năng nghệ thuật của tác giả được bộc lộ - lựa chọn chi tiết không dàn trải) -> (6) Nhận xét, đánh giá về nội dung của đoạn thơ, khổ thơ (phần này có thể về cảnh, về tâm trạng, tình cảm của nhân vật trữ tình trực tiếp hoặc nhân vật trữ tình nhập vai).
Các câu (1), (2), (5), (6) thường bắt buộc phải có khi phân tích. Câu (3), (4) tùy theo đoạn thơ, khổ thơ mà thực hiện. Riêng câu (4) học sinh khá, giỏi thường dùng dể mở rộng ý.
Ví dụ 1: Phân tích khổ thơ: 
	 “Ta làm con chim hót
	Ta làm một cành hoa
	Ta nhập vào hòa ca
	Một nốt trầm xao xuyến”
 (Thanh Hải – Mùa xuân nho nhỏ)
Viết đoạn: 
(1) Từ cảm nhận về mùa xuân của thiên nhiên, đất nước, nhà thơ đã có ước nguyện: 
 (2) “Ta làm con chim hót
	Ta làm một cành hoa
	Ta nhập vào hòa ca
	Một nốt trầm xao xuyến”
(3) Nhà thơ muốn làm con chim hót để làm vui cho cuộc đời, muốn làm một cành hoa để khoe sắc và tỏa ngát hương thơm , muốn làm một nốt trầm trong bản hòa ca đẻ làm tăng ý nghĩa trong cuộc sống.
 (4) Nhà thơ đã dùng những hình ảnh đẹp của tự nhiên như bông hoa, con chim để nói lên ước nguyện của mình. Những hình ảnh ấy được lặp lại, trở lại mang một ý nghĩa mới: Niềm mong muốn được sống có ích, cống hiến có ích cho đời. Cũng trong thời gian này, nhà thơ Tố Hữu đã viết trong bài “Một khúc xuân” những suy ngẫm tưng tự:
	Nếu là con chim, chiếc lá
 	Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.
	Nét riêng trong những câu thơ của Thanh Hải là ở chỗ nó đề cập đến một vấn đề lớn nhân sinh quan , vấn đề ý nghĩa của đời sống cá nhân trong mối quan hệ với cộng đồng , một cách thiết tha, nhỏ nhẹ, khiêm nhường được thể hiện qua những hình tượng đơn sơ mà chứa đựng nhiều xúc cảm.
(4’) Nếu khi bắt đầu vào bài thơ, nhà thơ xưng tôi  “Tôi đưa tay tôi hứng” thì giờ đây, tác giả đã chuyển sang ta. Hoàn toàn không phải ngẫu nhiên. Với chữ ta vừa là số ít vừa là số nhiều, tác giả có thể nói được cái riêng biệt, cá thể, đồng thời lại nói được cái khái quát, cái chung. (5) Cách sử dụng điệp ngữ “ta làm” láy đi láy lại thật tha thiết, chân thành. (6) Nhà thơ có một ước nguyện nhỏ bé, một phương châm sống thật cao đẹp được hòa nhập và cống hiến cho đời.
Từ đoạn văn trên, học sinh sẽ nhận thấy như quy trình :
Câu (1) nhận xét khái quát về nội dung của đoạn thơ, khổ thơ ấy.
Câu (2) dẫn chứng đoạn thơ, khổ thơ.
Câu (3) giảng giải, cắt nghĩa.
Câu (4), (4’) là liên hệ, mở rộng, so sánh.
Câu (5) là nhận xét cách sử dụng nghệ thuật.
Câu (6) là nhận xét, đánh giá về nội dung.
Đối với học sinh yếu thì không thể thực hiện những câu (4), (4’) mà dành cho học sinh khá, giỏi. Khi học sinh đã quen thì hướng dẫn cho đối tượng trung bình, yếu thực hiện những câu (4), (4’).
Ví dụ 2: Phân tích các câu thơ sau:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
 (Y Phương – Nói với con)
Viết đoạn : Những câu thơ mở đầu đã thể hiện tình yêu thương cảu cha mẹ đối với con :
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
Những hình ảnh cụ thể về một em bé đang tập đi, tập nói. Lúc thì bước tới níu lấy tay cha, lúc thì sà vào lòng mẹ. Điệp ngữ “bước tới” gợi bước chân chập chững của đứa con, sự mong chờ, vui mừng đón nhận của đôi vợ chồng trẻ. Nhà thơ đã tạo một không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt, hạnh phúc.
Ví dụ 3 : Phân tích khổ thơ :
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.
 (Nguyễn Duy – Ánh trăng)
Viết đoạn: Khổ thơ cuối bài thơ mang tính hàm nghĩa độc đáo, đưa tới chiều sâu tư tưởng triết lí:
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.
“Tròn vành vạnh” là trăng rằm, tròn đầy, một vẻ đẹp viên mãn. “Im phăng phắc” là im như tờ, không một tiếng động nhỏ. Vầng trăng cứ tròn đầy và lặng lẽ “Kể chi người vô tình”. “Trăng cứ tròn vành vạnh” như tượng trưng cho quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên chẳng thể phai mờ, cho sự bao dung độ lượng, của nghĩa tình thủy chung trọn vẹn. “Ánh trăng im phăng phắc” là hình ảnh nhân hóa, chính là người bạn – nhân chứng nghĩa tình mà nghiêm khắc đang nhắc nhở nhà thơ (và cả mỗi chúng ta). Con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn luôn tròn đầy, bất diệt.
	*Kết bài:
	Theo sách giáo khoa phần kết bài ở mỗi kiểu bài như sau:
	Nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích): Nhận định đánh giá chung của mình về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích).
	Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ: Khái quát giá trị, ý nghĩa của đoạn thơ bài thơ. Phần này giáo viên cần cụ thể hơn để học sinh hiểu:
-Nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích):
+Nêu những nhận định đánh giá chung về: Bút pháp xây dựng nhân vật, ảnh hưởng của nhân vật đối với người đọc.
+Có thể bày tỏ tình cảm, cảm xúc của mình đối với nhân vật.
+ Cần nói đến vai trò, vị trí của nhân vật trong tác phẩm, và tùy trường hợp, có thể nói rõ tác giả đã đóng góp được những gì về tư tưởng, về nghệ thuật trong quá trình phát triển của văn học một thời kì. (ý này dành cho học sinh khá, giỏi).
	Ví dụ: Phân tích nhân vật Phương Định trong truyện “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê.
	Truyện Những ngôi sao xa xôi đã thành công về cách kể chuyện, đặc biệt là nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật. Truyện đã làm sống lại trong lòng ta hình ảnh tuyệt đẹp và những chiến công phi thường của tổ trinh sát mặt đường. Chiến công thầm lặng của Phương Định và đồng đội là bài ca anh hùng. Những “ngôi sao” ấy luôn tỏa sáng hồn ta với bao ngưỡng mộ, biết ơn.
-Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ: 
+ Khái quát giá trị, ý nghĩa: có thể về nghệ thuật, nội dung hoặc vị trí của đoạn thơ, bài thơ trong dòng văn học ấy.
+ Hoặc rút ra ý nghĩa giáo dục.
	Ví dụ: Phân tích bài thơ “Nói với con” cuả Y Phương.
	Bằng từ ngữ, hình ảnh giàu sức gợi cảm, nhà thơ thể hiện tình cảm gia đình đầm ấm, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc mình. Bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.
	Những nội dung trong phần kết bài chỉ là định hướng, không bắt buộc phải trình bày đầy đủ khi viết bài. Giáo viên lưu ý cho học sinh, khi hết giờ làm bài có thể trình bày ngắn gọn về cảm nhận của mình về nhân vật (đoạn thơ, bài thơ) cũng được.	
4. Kết quả đạt được:
* KẾT QUẢ KHẢO SÁT HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRƯỜNG THCS NGUYỄN HUỆ SAU KHI TRIỂN KHAI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
Kết quả học kì 1 năm học 2012 - 2013:
Lớp
Tổng số học sinh
KẾT QUẢ XẾP LOẠI
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
9A3
28
3
10.6
10
35.5
15
53
0
0
9A4
39
8
20.5
20
51.3
11
28.2
0
0
PHẦN III: KẾT LUẬN
	Trong giảng dạy, bên cạnh việc giúp học sinh nắm bắt kiến thức trọng tâm của bài học thì việc rèn luyện kĩ năng sẽ giúp học sinh có định hướng trong việc tìm hiểu, phân tích tác phẩm văn học và tạo lập văn bản khi thực hành. Cho nên việc hướng dẫn học sinh cách làm văn nghị luận về tác phẩm văn học sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy và học, đáp ứng được chuẩn kiến thức và kĩ năng trong phương pháp dạy học mới hiện nay và từng bước nâng cao chất lượng học tập của học sinh ở bộ môn Ngữ văn. 
Trên đây là những kinh nghiệm mà tôi đúc rút được qua nhiều năm giảng dạy, nên chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong các đồng nghiệp tham khảo và đóng góp ý kiến để bản thân tôi nói riêng và việc dạy học bộ môn Ngữ văn nói chung có hiệu quả tốt hơn.
 , ngày tháng năm 20
 NGƯỜI THỰC HIỆN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách giáo khoa và Sách giáo viên Ngữ văn 7, 8.
Sách giáo khoa và Sách giáo viên Ngữ văn 9.
Phương pháp dạy học tích cực.
Tài liệu dạy học theo chuẩn kiến thức và kĩ năng.
Học tốt môn Ngữ văn 8, 9.
PHẦN NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CÁC CẤP
...................................................................................

File đính kèm:

  • docSKKN Ngu van 9 -van nghi luan.doc