Bài thu hoạch chuyên đề bồi dưỡng thường xuyên module 18: phương pháp dạy học tích cực
Vấn đề phát huy tính tích cực của người học đã được đặt ra trong ngành giáo dục nước ta từ thập niên 60 của thế kỉ trước. Thời kì này, trong các trường sư phạm đã có khẩu hiệu: “ Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”. Những lần cải cách giáo dục tiếp theo, phát huy tính tích cực là một trong các phương hướng cải cách , nhằm đào tạo ra những con người năng động, sáng tạo, làm chủ bản thân và đất nước.
Tuy nhiên, cho đến nay sự chuyển biến về PPDH trong các loại hình nhà trường còn diễn tiến chậm; chủ yếu vẫn là cách dạy truyền thống : thày thông báo các kiền thức có sẵn , trò thu nhận chúng một cách thụ động ; xen kẽ trong các bài dạy có sử dụng các phương pháp vấn đáp tái hiện hoặc giải thích- minh hoạ với sự hỗ trợ của đồ dùng trực quan.
Nếu cứ tiếp tục cách dạy và học thụ động như thế, giáo dục sẽ không đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của xã hội. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ( 2000-2020), việc Việt Nam chúng ta ra nhập WTO năm 2006 là thách thức thực tế không nhỏ đối với đòi hỏi phải cải cách toàn diện nền giáo dục nước nhà , trong đó có sự đổi mới căn bản về PPDH.
Định hướng đổi mới PPDH đã được xác định trong các Nghị quyết TW từ năm 1996, được thể chế hoá trong Luật giáo dục(12-1998), đặc biệt tái khẳng định trong điều 5, Luật giáo dục (2005):” Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.”
Như vậy, có thể nói, vấn đề chủ yếu của việc đổi mới PPDH là hướng tới các hoạt động học tập chủ động, sáng tạo chống lại thói quen học tập thụ động, giáo điều. Chú ý tới việc rèn luyện kỹ năng, đặc biệt là kỹ nãng vận dụng vào thực tiễn, hình thành và phát triển các phẩm chất tư duy độc lập, sáng tạo. DH tạo nên các trạng thái tinh thần, tâm lý tích cực cho người học.
Đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng đã nêu, vấn đề quan trọng hàng đầu là PPDH tích cực.
gì? HS: Cục than cháy, sau đó sắt cháy, những tia sáng bắn toé ra, các hạt màu nâu bám ở thành lọ được khi oxi. GV: Than cháy toả nhiều nhiệt làm cho sắt nóng lên rồi sắt mới tác dụng với oxi, các hạt nóng chảy màu nâu là oxi sắt từ, có công thức hoá học là Fe3O4. Hãy viết phương trình phản ứng hoá học xảy ra. HS: 3Fe + 2O2 ® Fe3O4 GV: Fe3O4 là chất hoá học trong đó Fe có hoá trị II và hoá trị III. Hãy nhận xét, so sánh đầu đinh ghim sắt trước và sau phản ứng? Tại sao có thể khẳng định là sắt đã có phản ứng hoá học với oxi? HS: Trước khi sắt cháy trong oxi, đầu đinh ghim sắt là nhọn. Sau phản ứng thì ở đầu đinh ghim sắt có một cục kim loại (thép) nhỏ hình cầu. Có thể khẳng định là sắt đã có phản ứng với oxi vì sắt cháy trong oxi tạo ra những hạt nóng chảy màu nâu Fe3O4. GV: Có ục thép nhỏ hình cầu được tạo ra ở đầu đinh ghim vì phản ứng giữa Fe và O2 toả ra nhiều nhiệt làm cho sắt nóng chảy, có khi sắt nóng chảy đó rơi xuống đáy lọ. Vì vậy người ta thường để lại một ít nước ở đáy lọ tránh gây vỡ lọ vì nhiệt. GV: Oxi không chỉ tác dụng với sắt mà còn tác dụng với hầu hết các kim loại. Sau đây ta xem nó có tác dụng với phi kim không, chẳng hạn với lưu huỳnh? Đây là cốc đựng bột lưu huỳnh (hoặc những cục nhỏ lưu huỳnh). Ở nhiệt độ thường, lưu huỳnh có phản ứng với oxi không? HS: Không thấy có dấu hiệu của phản ứng hoá học. GV: Đốt cháy lưu huỳnh trong không khí. Nhận xét? Sau đó đưa lưu huỳnh đang cháy vào bình có chứa oxi. Nhận xét và so sánh với hiện tượng lúc đốt lưu huỳnh trong không khí. HS: Khi đốt ở trong không khí lưu huỳnh bị cháy có ngọn lửa xanh mờ. Trong oxi, lưu huỳnh cháy sáng rực và sinh ra nhiều khói trắng. GV: Trong khói trắng có chất mới tạo thành là lưu huỳnh đioxit, còn gọi là khí sunfurơ, có công thức hoá học là SO2, lẫn với một ít lưu huỳnh trioxit SO3. Các em hãy viết phương trình hoá học của phản ứng. GV: Bây giờ ta nghiên cứu phản ứng của oxi với photpho. Đây là bột photpho đỏ. Nó có tác dụng với oxi ở nhiệt độ thường không? Đốt cháy photpho đỏ ở trong không khí rồi đưa nó vào bình có chứa oxi. Hãy nhận xét các hiện tượng. HS: Photpho cháy trong oxi rất mãnh liệt, ngọn lửa sáng rực, sinh ra rất nhiều khói trắng làm ngạt thở. GV: Chất khói trắng tạo thành là những hạt nhỏ của chất mới tạo thành điphotpho pentaoxit, còn được gọi là anhiđrit photphoric, có công thức P2O5. Hãy viết phương trình hoá học. GV: Qua những phản ứng hoá học của oxi với các chất, các em có nhận xét gì về khả năng tác dụng hoá học của oxi với các kim loại và phi kim? Sản phẩm của phản ứng là chất gì? HS: Oxi có thể tác dụng hoá học với nhiều kim loại và phi kim. Sản phẩm của phản ứng là oxit. GV: Đúng. Ta có thể kết luận là oxi dễ dàng tham gia phản ứng hoá học với các chất, do đó oxi là một trong những đơn chất hoạt động hoá học mạnh nhất. Sản phẩm của phản ứng là oxit. GV: Hãy cho biết hoá trị của nguyên tố oxi trong các hợp chất hoá học? HS: Hoá trị của oxi luôn là 2. GV: Đúng. Hoá trị của nguyên tố oxi trong các hợp chất hoá học luôn luôn là 2. 2. Phương pháp dạy học nêu và giải quyết vấn đề a. Khái niệm - Vấn đề là những câu hỏi hay nhiệm vụ đặt ra mà việc giải quyết chúng chưa có quy luật sẵn cũng như những tri thức, kỹ năng sẵn có chưa đủ giải quyết mà còn khó khăn, cản trở cần vượt qua. - Một vấn đề được đặc trưng bởi ba thành phần: +Trạng thái xuất phát: không mong muốn + Trạng thái đích: Trạng thái mong muốn + Sự cản trở - Tình huống có vấn đề xuất hiện khi một cá nhân đứng trước một mục đích muốn đạt tới, nhận biết một nhiệm vụ cần giải quyết nhưng chưa biết bằng cách nào, chưa đủ phương tiện (tri thức, kỹ năng…) để giải quyết. - Dạy học giải quyết vấn đề: + Dạy học giải quyết vấn đề dựa trên cơ sở lý thuyết nhận thức. Giải quyết vấn đề có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển tư duy và nhận thức của con người. „Tư duy chỉ bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề“ (Rubinstein). + DHGQVĐ là một QĐ DH nhằm phát triển năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề của học sinh. Học sinh được đặt trong một tình huống có vấn đề, thông qua việc giải quyết vấn đề giúp học sinh lĩnh hội tri thức, kỹ năng và phương pháp nhận thức. b. Một số lưu ý - Tri thức và kĩ năng HS thu được trong quá trình PH&GQVĐ sẽ giúp hình thành những cấu trúc đặc biệt của tư duy. Nhờ những tri thức đó, tất cả những tri thức khác sẽ được chủ thể chỉnh đốn lại, cấu trúc lại. - Tỉ trọng các vấn đề người học PH & GQVĐ so với chương trình tuỳ thuộc vào đặc điểm của môn học, vào đối tượng HS và hoàn cảnh cụ thể. Không nên yêu cầu HS tự khám phá tất các các tri thức qui định trong chương trình. Cho HS PH & GQVĐ đối với một bộ phận nội dung học tập, có thể có sự giúp đỡ của GV với mức độ nhiều ít khác nhau. HS được học không chỉ kết quả mà điều quan trọng hơn là cả quá trình PH & GQVĐ c. Ví dụ minh họa Nghiên cứu thí nghiệm: nhôm phản ứng với dung dịch kiềm ở bài “Nhôm” lớp 9 Hoạt động của GV Hoạt động của HS Nêu vấn đề: Nhôm có đầy đủ tính chất của kim loại nói chung, ngoài ra nhôm có tính chất gì đặc biệt? Hãy nghiên cứu thí nghiệm nhôm tác dụng với dung dịch NaOH - Gợi ý: Phản ứng này có gì mâu thuẫn với những điều đã học. - Giải quyết mâu thuẫn: Điều này không sai và không mâu thuẫn. Đó là do hợp chất của nhôm có tính chất đặc biệt, ta sẽ học ở lớp trên - Nhóm HS: Thả dây nhôm vào ống nghiệm đựng dung dịch NaOH, có ống vuốt dẫn khí ra ngoài - Quan sát hiện tượng khí thoát ra - Châm lửa đốt, khí cháy, ngọn lửa xanh. Khí tạo thành là hiđro - HS nêu vấn đề: Phản ứng Al với dung dịch NaOH có mâu thuẫn với tính chất của kim loại đã học không? Hay thí nghiệm sai? 3. Phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ a. Khái niệm Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Tuỳ mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hay có chủ định, được duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của tiết học, được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau. Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có thể phân công mỗi người một phần việc. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực, không thể ỷ lại vào một vài người hiểu bết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiêu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả lớp. Để trình bày kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp, nhóm có thể cử ra một đại diện hoặc phân công mỗi thành viên trình bày một phần nếu nhiệm vụ giao cho nhóm là khá phức tạp. Phương pháp hoạt động nhóm có thể tiến hành : *Làm việc chung cả lớp : - Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức - Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ - Hướng dẫn cách làm việc trong nhóm * Làm việc theo nhóm - Phân công trong nhóm - Cá nhân làm việc độc lập rồi trao đổi hoặc tổ chức thảo luận trong nhóm - Cử đại diện hoặc phân công trình bày kết quả làm việc theo nhóm * Tổng kết trước lớp - Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả - Thảo luận chung - Giáo viên tổng kết, đặt vấn đề cho bài tiếp theo, hoặc vấn đề tiếp theo trong bài Phương pháp hoạt động nhóm giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ các băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp nhận thụ động từ giáo viên. Thành công của bài học phụ thuộc vào sự nhiệt tình tham gia của mọi thành viên, vì vậy phương pháp này còn gọi là phương pháp cùng tham gia. Tuy nhiên, phương pháp này bị hạn chế bởi không gian chật hẹp của lớp học, bởi thời gian hạn định của tiết học, cho nên giáo viên phải biết tổ chức hợp lý và học sinh đã khá quen với phương pháp này thì mới có kết quả. Cần nhớ rằng, trong hoạt động nhóm, tư duy tích cực của học sinh phải được phát huy và ý nghĩa quan trọng của phương pháp này là rèn luyện năng lực hợp tác giữa các thành viên trong tổ chức lao động.Cần tránh khuynh hướng hình thưc và đề phòng lạm dụng, cho rằng tổ chức hoạt động nhóm là dấu hiệu tiêu biểu nhất của đổi mới PPDH và hoạt động nhóm càng nhiều thì chứng tỏ phương pháp dạy học càng đổi mới. b. Quy trình thực hiện Bước 1: Làm việc chung cả lớp: - Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức - Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ cho các nhóm - Hướng dẫn cách làm việc theo nhóm. Bước 2: Làm việc theo nhóm - Phân công trong nhóm, từng cá nhân làm việc độc lập - Trao đổi ý kiến, thảo luận trong nhóm - Cử đại diện trình bày kết quả làm việc của nhóm. Bước 3: Thảo luận, tổng kết trước toàn lớp - Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả - Thảo luận chung - GV tổng kết, đặt vấn đề cho bài tiếp theo hoặc vấn đề tiếp theo c. Ví dụ minh họa Nhóm HS nghiên cứu tính chất chung của axit thông qua nghiên cứu dung dịch H2SO4 tác dụng với Cu(OH)2 và NaOH. Trong hoạt động này, nhóm trưởng phân công một thành viên làm thí nghiệm với bazơ tan, thành viên kia làm thí nghiệm với bazơ không tan. Cả nhóm quan sát 2 thí nghiệm. Thư ký ghi chép lại kết quả báo cáo. Ở thí nghiệm 1, một thành viên nhỏ từ từ dung dịch H2SO4 vào ống nghiệm đựng Cu(OH)2 cho đến dư. Ở thí nghiệm 2, một thành viên nhỏ từ từ dung dịch H2SO4 vào ống nghiệm đựng dung dịch NaOH có vài giọt phenolphtalein cho đến dư. Các thành viên quan sát, trao đổi với nhau về nội dung mô tả hiện tượng xảy ra, xác định chất tạo thành và viết các PTHH. Trưởng nhóm hoặc một thành viên báo cáo kết quả trước tập thể lớp, giáo viên kết luận. 4. Phương pháp trực quan a. Quy trình thực hiện - GV treo những đồ dùng trực quan hoặc giới thiệu về các vật dụng thí nghiệm, các thiết bị kỹ thuật…Nêu yêu cầu định hướng cho sự quan sát của HS. - GV trình bày các nội dung trong lược đồ, sơ đồ, bản đồ… tiến hàn
File đính kèm:
- bai thu hoach BDTX module 18.doc