Bài giảng Bài 19: Tiết 2: Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (từ năm 1858 đến trước năm 1873)
I. Về kiến thức
Giúp học sinh hiểu được:
- Ý đồ xâm lược Việt Nam của tư bản phương Tây.
- Quá trình thực dân Pháp xâm lược Việt Nam từ năm 1858 đến năm 1873.
- Cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1858 đến năm 1873.
Phần Ba: LỊCH SỬ VIỆT NAM (1858-1918) Chương I: VIỆT NAM TỪ NĂM 1858 ĐẾN CUỐI THẾ KỈ XIX Bài 19: Tiết 2 NHÂN DÂN VIỆT NAM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (Từ năm 1858 đến trước năm 1873) Mục tiêu bài học Về kiến thức Giúp học sinh hiểu được: Ý đồ xâm lược Việt Nam của tư bản phương Tây. Quá trình thực dân Pháp xâm lược Việt Nam từ năm 1858 đến năm 1873. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1858 đến năm 1873. Về thái độ, tư tưởng, tình cảm Hiểu được bản chất xâm lược của chủ nghĩa thực dân và sự tàn bạo của chúng. Tự hào về truyền thống chống xâm lược của cha ông. Có thái độ đúng mức khi tìm hiểu về nguyên nhân và trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để mất nước cuối thế kỉ XIX. Có nhận thức đúng đối với các sự kiện, nhân vật lịch sử cụ thể. Về kĩ năng Rèn luyện kĩ năng phân tích, so sánh, nhận xét, đánh giá sự kiện, vấn đề lịch sử. Biết liên hệ, rút ra bài học kinh nghiệm. Thiết bị, tài liệu dạy học Lược đồ Đông Nam Á cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX. Lược đồ cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Kì. Tranh, ảnh về cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhân dân Việt Nam từ năm 1858 đến trước năm 1873. Tiến trình tổ chức hoạt động dạy-học (45 phút) Ổn định lớp (1 phút): Nắm sĩ số lớp học. Kiểm tra bài cũ (5 phút) Câu hỏi: Em hãy trình bày tình hình chiến sự ở Đà Nẵng năm 1858. Giảng bài mới (39 phút) Dẫn nhập vào bài mới (1 phút) Trong tiết học trước, chúng ta đã biết được ngay từ khi Pháp xâm lược, quân và dân ta đã anh dũng đứng lên kháng chiến, bước đầu làm thất bại âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp trong chiến sự Đà Nẵng. Thấy không thể chiếm được Đà Nẵng, Pháp quyết định đưa quân vào đánh chiếm Gia Định và các tỉnh Nam Kì. Giữa lúc phong trào đấu tranh của nhân dân đang dâng cao và lan rộng, triều đình Huế đã kí với Pháp Hiệp ước Nhâm Tuất (1862). Mặc dù vậy, phong trào chống Pháp của nhân dân ta ở các tỉnh Nam Kì vẫn tiếp diễn. Vậy cuộc kháng chiến chống Pháp ở đây đã diễn ra như thế nào, chúng ta tiếp tục bài học ngày hôm nay. Tiến trình tổ chức hoạt động dạy-học (36 phút) Thời gian Hoạt động của giáo viên và học sinh Kiến thức cơ bản 17 phút Hoạt động 1: Cá nhân, cả lớp - Giáo viên nêu câu hỏi:Việc triều đình Huế kí Hiệp ước ngày 5/6/1862 đã ảnh hưởng tới phong trào đấu tranh của nhân dân ta như thế nào? - Học sinh dựa vào sgk trả lời câu hỏi. - Giáo viên nhận xét, chốt ý: Thực hiện những điều đã cam kết với Pháp trong Hiệp ước 1862, các lực lượng kháng chiến ở ba tỉnh miền Đông Nam Kì (Gia Định, Định Tường, Biên Hoà) buộc phải giải tán. Những người kháng chiến không tuân lệnh bị kết tội; phong trào thiếu người lãnh đạo, thiếu chỗ dựa tinh thần, thiếu vũ khí Kẻ thù được tăng cường về quân số và vũ khí. Điều kiện chiến đấu của quân, dân ta trở nên khó khăn, gian khổ hơn khi chính quyền thuộc địa của Pháp ở ba tỉnh miền Đông được xây dựng, củng cố. - Giáo viên đặt câu hỏi: Phong trào đấu tranh ở ba tỉnh miền Đông sau Hiệp ước 1862 diễn ra như thế nào? Có điểm gì khác trước? - Học sinh dựa vào nội dung trong sgk, kết hợp khai thác Lược đồ hình 52: Lược đồ cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Kì để giải quyết vấn đề. - Giáo viên nhận xét, chốt ý: Bất chấp sự ngăn cấm của triều đình, phong trào đấu tranh vẫn tiếp tục dâng cao. Phong trào “tị địa” diễn ra sôi nổi gây cho Pháp gặp nhiều khó khăn trong việc tổ chức, quản lí những vùng đất chúng mới chiếm được. - Giáo viên gợi ý, định hướng để học sinh làm rõ: + Bên cạnh mục tiêu chống Pháp còn có mục tiêu chống triều đình phong kiến đầu hàng. + Hình thức phong phú hơn (phong trào “tị địa”-chủ trương của các văn thân, sĩ phu miền Đông rời bỏ sang miền Tây không cộng tác với giặc). - Giáo viên yêu cầu một học sinh đọc đoạn chữ nhỏ về cuộc khởi nghĩa Trương Định trong sgk trang 112. - Giáo viên bổ sung thêm: Trương Định là một người văn võ song toàn, đã thu nạp được nhiều anh tài như Đỗ Quang, Nguyễn Thông Ngay từ năm 1859, Trương Định đã đem quân phối hợp với quân triều đình chống Pháp tại Gia Định. Hoạt động mạnh mẽ của nghĩa quân làm cho giặc Pháp và triều đình lo sợ. Triều đình đã hạ lệnh cho ông phải bãi binh, điều ông đi nhận chức Lãnh binh ở An Giang và Phú Yên. Khi nghe tin sắc phong của triều đình, quần chúng nhân dân đã suy tôn Trương Định lên làm chủ soái để giết giặc, cứu nước, cứu dân. - Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát hình 51: Trương Định nhận phong soái trang 112 sgk, miêu tả lại quang cảnh lễ phong soái cho Trương Định (quang cảnh, thành phần, khí thế của dân chúng trong buổi lễ), qua đó đánh giá hành động của Trương Định khi quyết định ở lại cùng nhân dân chiến đấu. - Giáo viên nhận xét, bổ sung. - Giáo viên giảng tiếp: Dưới ngọn cờ “Bình Tây đại nguyên soái”, ông đã thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân đi theo. Ông đã xây dựng được lực lượng với hơn 1 vạn nghĩa binh trên một vùng căn cứ rộng lớn. Biết được căn cứ trung tâm của phong trào là Tân Hòa, ngày 28/2/1863, giặc Pháp mở cuộc tấn công quy mô vào căn cứ này. Nghĩa quân đã chiến đấu anh dũng suốt 3 ngày đêm, sau đó rút lui về căn cứ Tân Phước để bảo toàn lực lượng. Ngày 20/8/1864, Pháp tập kích vào căn cứ Tân Phước, nghĩa quân chống trả quyết liệt, Trương Định hi sinh. - Giáo viên phân tích cho học sinh thấy được: Đây là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu cho tinh thần quật khởi của nhân dân Nam Kì, đồng thời cũng là dấu mốc hình thành trận tuyến của nhân dân (tách ra khỏi cuộc kháng chiến của triều đình), bước đầu kết hợp giữa hai nhiệm vụ: chống thực dân xâm lược và chống phong kiến đầu hàng. III. Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Kì sau Hiệp ước 1862 1. Nhân dân ba tỉnh miền Đông tiếp tục kháng chiến sau Hiệp ước 1862 * Hoàn cảnh lịch sử: - Theo Hiệp ước 1862, nhà Nguyễn ra lệnh giải tán nghĩa binh chống Pháp. - Phong trào chống Pháp ở ba tỉnh miền Đông Nam Kì vẫn tiếp diễn. * Những cuộc kháng chiến tiêu biểu của nhân dân Nam Kì: - Phong trào “tị địa” của văn thân, sĩ phu. - Khởi nghĩa Trương Định (1862) ở Gò Công với lá cờ “Bình Tây Đại nguyên soái”. 7 phút Hoạt động 2: Cá nhân, cả lớp - Giáo viên sử dụng lược đồ, giới thiệu địa thế ba tỉnh miền Tây Nam Kì và nêu câu hỏi: Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kì như thế nào? - Học sinh đọc sgk, kết hợp quan sát lược đồ, suy nghĩ trả lời. - Giáo viên nhận xét, chốt lại: Việc đánh chiếm ba tỉnh miền Tây đã có trong kế hoạch của Pháp từ trước. Sau khi chiếm được ba tỉnh miền Đông, năm 1863, thực dân Pháp dùng vũ lực áp đặt nền bảo hộ lên đất Campuchia, cô lập ba tỉnh miền Tây, tạo điều kiện dễ dàng cho việc đánh chiếm toàn bộ Nam Kì.. Sau đó, chúng vu cáo triều đình Huế vi phạm các điều đã cam kết trong Hiệp ước 1862. Ngày 20/6/1867, lợi dụng sự bạc nhược của triều đình Huế, Pháp đã ép Phan Thanh Giản giao thành Vĩnh Long. Từ ngày 20 đến ngày 24/6/1867, Pháp đã chiếm gọn được ba tỉnh miền Tây (An Giang, Vĩnh Long, Hà Tiên) mà không tốn một viên đạn. - Giáo viên giảng tiếp: Mất ba tỉnh miền Tây, triều đình Huế mất vùng hậu phương rộng lớn, giàu có, còn Pháp dễ dàng uy hiếp phong trào ở Campuchia và mở rộng đánh chiếm ra Bắc Kì, Trung Kì. 2. Thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kì - Ngày 20/6/1867, thực dân Pháp ép Phan Thanh Giản giao thành Vĩnh Long. - Từ ngày 20 đến 24/6/1867, Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kì (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên). 12 phút Hoạt động 3: Cá nhân, cả lớp - Giáo viên dẫn dắt: Sau khi ba tỉnh miền Tây Nam Kì rơi vào tay Pháp, triều đình Huế phản ứng một cách yếu ớt, nhưng một cao trào kháng chiến mới của nhân dân lại bắt đầu. - Giáo viên yêu cầu học sinh đọc sgk và hỏi: Em hãy nêu tên những cuộc khởi nghĩa tiêu biểu được đề cập trong sgk. - Học sinh theo dõi sgk trả lời câu hỏi. - Dựa vào lược đồ hình 52: Lược đồ kháng chiến chống Pháp ở Nam Kì, giáo viên nêu diễn biến chính của phong trào kháng chiến chống Pháp ở ba tỉnh miền Tây sau năm 1867: Phong trào không hề bị giảm sút mà tiếp tục gia tăng, xuất hiện ngày càng nhiều những trung tâm mới, những nhân tố mới, với nhiều tấm gương sáng chói về lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm, kiên cường, bất khuất chống ngoại xâm. Một số văn thân, sĩ phu yêu nước bất hợp tác với giặc, tìm cách vượt biển ra vùng Bình Thuận nhằm mưu cuộc kháng chiến lâu dài. Một số khác tiến hành cuộc vũ trang chống Pháp. Trương Quyền lập cơ sở kháng chiến ở Tây Ninh, liên kết với Pu-côm-bô chống Pháp. Năm 1867, Phan Tôn, Phan Liêm lập căn cứ ở Bến Tre. Nguyễn Trung Trực lập căn cứ ở Rạch Giá. Nguyễn Hữu Huân lập căn cứ ở Mĩ Tho - Giáo viên nêu câu hỏi: Em có nhận xét gì về cuộc đấu tranh của nhân dân ba tỉnh miền Tây? - Học sinh suy nghĩ trả lời, học sinh khác bổ sung. - Giáo viên nhận xét, chốt ý: Phong trào diễn ra trong hoàn cảnh rất khó khăn nhưng quyết liệt, với các hình thức phong phú, các căn cứ được xây dựng ở khắp nơi. Tuy nhiên, cuối cùng cũng bị thất bại do chênh lệch lực lượng, vũ khí thô sơ. Qua đó, thể hiện lòng yêu nước, ý chí bất khuất chống ngoại xâm của nhân dân ta. 3. Nhân dân ba tỉnh miền Tây chống Pháp - Sau khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam Kì, phong trào kháng chiến phát triển mạnh. - Các văn thân, sĩ phu tỏ thái độ bất hợp tác với Pháp. + Trương Quyền lập cơ sở kháng chiến ở Tây Ninh, liên kết với Pu-côm-bô chống Pháp. + Phan Tôn, Phan Liêm lập căn cứ ở Bến Tre. + Nguyễn Trung Trực lập căn cứ ở Rạch Giá. + Nguyễn Hữu Huân lập căn cứ ở Mĩ Tho. - Đặc điểm: + Phong trào kháng chiến diễn ra sôi nổi nhưng thất bại do lực lượng chênh lệch, vũ khí thô sơ + Thể hiện lòng yêu nước, ý chí bất khuất chống ngoại xâm của nhân dân ta. Củng cố kiến thức, dặn dò học sinh (2 phút) Củng cố kiến thức Giữa thế kỉ XIX, viện cớ triều đình nhà Nguyễn cấm đạo và giết giáo sĩ, liên quân Pháp-Tây Ban Nha đã tấn công xâm lược Việt Nam. Từ năm 1858 đến năm 1862, Pháp chiếm được ba tỉnh miền Đông Nam Kì. Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta nổ ra ngay từ đầu với tinh thần quả cảm, cương quyết, mưu trí. Năm 1867, Pháp chiếm thêm ba tỉnh miền Tây Nam Kì. Nhiều tấm gương chiến đấu hi sinh quên mình vì nước đã xuất hiện: Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân và nhiều liệt
File đính kèm:
- Bai 19 Nhan dan Viet Nam khang chien chong Phap xam luoc Tu nam 1858 den truoc nam 1873.doc