Tiểu luận Việc áp dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế ở Việt Nam

MỤC LỤC

 

A. LỜI NÓI ĐẦU 1

B. NỘI DUNG 2

I. NHẬN THỨC LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI 2

1. Vai trò của sản xuất vật chất trong đời sống xã hội. 2

2. Vai trò của phương thức sản xuất đối với nền sản xuất của xã hội 2

a. Điều kiện tự nhiên 2

b. Điều kiện dân cư 2

c. Phương thức sản xuất 2

3. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tình độ phát triển của các lực lượng sản xuất 2

a. Vị trí 2

b. Khái niệm lực lượng sản xuất 3

c. Khái niệm quan hệ sản xuất 4

d. Vai trò của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất 4

II. VIỆP ÁP DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM. 5

1. Quan hệ sản xuất hàng hoá ở Việt Nam 5

a. Những quan hệ sản xuất ở Việt Nam 5

b. Sự hình thành quan hệ sản xuất trong nền kinh tế ở nước ta 6

c. Sự đa dạng của quan hệ sản xuất trong thời kỳ đổi mới 6

2. Công nghiệp hoá hiện đại hoá là vận dụng tuyệt vời quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay 7

3. Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội cơ sở lý luận của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá 8

KẾT LUẬN 10

 

doc11 trang | Chia sẻ: Thewendsq8 | Lượt xem: 2164 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Việc áp dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g sản xuất hiện đại tri thức kỹ năng của người lao động ngày càng quan trọng. Như Lênin đã viết "lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động" (Lênin toàn tập).
Trong hai nhóm trên nhân tố người lao động là quan trọng nhất bởi vì các tư liệu sản xuất đều là sản phẩm của lao động, những tư liệu đó chỉ có tác dụng, có giá trị trong sản xuất một khi được người lao động sử dụng, cũng chính vì vậy trong xã hội cong nghiệp hiện đại thì lực lượng sản xuất số một là người công nhân công nghiệp, nhu cầu của 1 nền sản xuất hiện đại cùng sự phát triển của khoa học công nghệ, các tri thức khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội, nó không phải là nhân tố thứ 3 kết tinh trong tư liệu sản xuất, vá người lao động thông qua các quá trình sáng chế kỹ thuật, sáng chế kỹ thuật phải thông qua nhân tố người lao động.
c. Khái niệm quan hệ sản xuất 
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ sản xuất giữa con người với nhau trong quá trình sản xuất quan hệ sản xuất này được phân tích trên 3 phương diện
- Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quan hệ quyết định các mối quan hệ khác.
- Quan hệ tổ chức quản lý, vi mô, vĩ mô, tuỳ thuộc vào quan hệ sản xuất, thực chất là lớp quan hệ tổ chức kết hựop giữa tư liệu sản xuất với sức lao động trong các quá trình sản xuất cụ thể
- Phân phối sản phẩm tuỳ thuộc vào mối quan hệ sở hữu người công nhân sở hữu sức lao động, người chủ sở hữu tư liệu sản xuất.
- Vai trò của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất 
Lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định với quan hệ sản xuất bởi vì lực lượng sản xuất là nhân tố thuộc nhân tố nội dung vật chất, đảm bảo cho sự duy trì kết hợp các quá trình sản xuất. Tính quyết định đó thể hiện với một trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện có nó đòi hỏi các quan hệ sở hữu cách thức giải quyết và mộ chế độ tương ứng với nó những biến đổi trong lực lượng sản xuất đặt ra nhu cầu phải thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó.
Vì vậy, yêu cầu cơ bản của quy luật này trong việc quy định hoàn thiện hệ thống quan hệ sản xuất thì phải căn cứ vào thực trạng của nhu cầu phát triển lực lượng sản xuất, mỗi người cần liên hệ thực tiễn quan hệ sản xuất
Việc chuyển từ quan hệ sản xuất lỗi thời lên cao hơn như Các mác nhận xét "không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi"
d. Vai trò của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất 
Quan hệ sản xuất giữ vai trò là các hình thức kinh tế của các quá trình sản xuất, nó có vai trò tác động đến việc sử dụng khai thác, sử dụng phát triển các lực lượng sản xuất như thế nào, có thể là tích cực khi phù hợp với nhu cầu của lực lượng sản xuất, có thể tác động tiêu cực trong trường hợp không phù hợp.
Biện chứng của mối quan hệ trên được thể hiện theo logic sau đây lực lượng sản xuất là yếu tố động cách mạng, lao động sản xuất là yếu tố tính chậm phát triển, chính điều đó tạo khả năng mâu thuẫn giữa hai mặt của những phương thức sản xuất, mâu thuẫn này bộc lộ rõ khi lực lượng sản xuất đã phát triển đến 1 giới hạn nhất định nó đặt ra nhu cầu phải thay đổi quan hệ sản xuất, sự thay đổi này chỉ thực hiện được thông qua các cuộc cách mạng do đó tạo sự biến đổi của phương thức sản xuất xã hội.
II. Việp áp dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế ở Việt Nam.
1. Quan hệ sản xuất hàng hoá ở Việt Nam 
Như chúng ta đã biết các quan hệ sản xuất ở nước ta rất phong phú đa dạng, do điều kiện địa lý đất nước ta kéo dài từ Bắc xuống Nam dẫn đến điều kiện khí hậu, sông ngòi, sự phân bố dân cư giữa các vùng trong cả nước rất khác nhau dẫn tới mối quan hệ sản xuất rất đa dạng mang yếu tố đặc thù. Miền Nam do có lượng nước dồi dào rất phát triển về trồng trọt có tổng sản lượng cao nhất, miền Bắc do là vùng tập trung đông dân cư và có truyền thống canh tác lâu đời nên sản xuất có sản lượng lớn, miền Trung có khí hậu khắc nghiệt thường xuyên có bão lũ nền không phát triển được như hai miền Bắc và Nam, chỉ nói về mặt nông nghiệp phần nào cho ta thấy sự khác biệt rõ rệt về mối quan hệ sản xuất ở 3 miền với những đặc thù riêng.
a. Những quan hệ sản xuất ở Việt Nam 
nền kinh tế hàng hoá ở ta là một nền kinh tế nhiều thành phần được Nhà nước khuyến khích phát triển nhằm đa dạng hoá các quan hệ sản xuất của Nhà nước trong các lĩnh vực quan trọng phục vụ các nhu cầu thiết yếu của đời sống.
Như điện, nước, các công trình công cộngĐối với cách thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể thực hiện chính sách khuyến khích phát triển, nhưng với thành phần kinh tế này phải có những biện pháp từ chính sách của Nhà nước để quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Thực hiện quan điểm từ Đại hội VI khi khẳng định không những khôi phục thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể mà phải phát triển chúng rộng rãi theo chính sách của Đảng và Nhà nước.
b. Sự hình thành quan hệ sản xuất trong nền kinh tế ở nước ta
Như ta đã biết trước đây nước ta là một nước phong kiến kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, tự cung tự cấp. Sau nước ta trở thành thuộc địa của Pháp, hàng hoá tuy có phong phú hơn trước đây nhưng vẫn không có các ngành sản xuất ở trình độ khoa học, hàng hoá chủ yếu phục vụ cho các nhu cầu cơ bản của đời sống. Sau một thời gian ngắn hoà bình, đất nước ta bước vào cuộc đấu tranh khốc liệt với đế quốc Mỹ với mục tiêu thống nhâtý đất nước. Bước ra từ hai cuộc chiến tranh ác liệt nền kinh tế sản xuất của ta gần như không có gì, nền sản xuất nhỏ trình độ khoa học kém phát triển, sau khi giành độc lập nước ta chủ trương quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa nhưng không qua tư bản chủ nghĩa, nhưng do trong thời gian đó chúng ta đã có những quan niệm không đúng cho rằng đưa quan hệ sản xuất đi trước để mở đường cho sự phát triển lực lượng sản xuất, thiết lập công hữu sở hữu toàn dân trong khi trình độ sản xuất và quản lý yếu kém dẫn đến mâu thuẫn sâu sắc nảy sinh không lường trước được. Đất nước rơi vào tình trạng trị trệ không phát triển cán bộ tham ô, người công nhân với nông dân không hăng hái tham gia sản xuất, cuộc sống khó khăn, kinh tế giảm sút đất nước rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Nhận thức được sai lầm đó Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra những chính sách mới, cho phép phục hồi và phát triển chủ nghĩa tư bản, buôn bán tự do rộng rãi có lợi cho sự phát triển sản xuất, đưa ra phương hướng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần có định hướng xã hội chủ nghĩa, dần dần đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng và phát triển kinh tế, giảm dần sự tụt hậu so với các nền kinh tế phát triển.
c. Sự đa dạng của quan hệ sản xuất trong thời kỳ đổi mới 
Công cuộc đổi mới ở nước ta bắt đầu từ năm 1986 cho đến nay tuy không phải là một thời gian dài, nhưng đã tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ về kinh tế dẫn đến sự biến đổi về các quan hệ sản xuất. Ngày nay, quan hệ sản xuất ở nước ta rất phong phú đa dạng nhằm phục vụ cho một nền kinh tế hàng hoá phát triển với nhiều thành phần thm gia, các quan hệ sản xuất biến đổi mạnh mẽ và nhanh chóng nhằm phục vụ cho các trình độ các lĩnh vực sản xuất hàng hoá khác nhau. Với số lượng các công ty tăng lên nhanh chóng với cấp số nhân đã tạo động lực mạnh mẽ cho quá trình sản xuất hàng hoá, tạo ra nguồn vốn, tạo việc làm, tăng cả chất và lượng của lực lượng lao động, đưa đất nước phát triển với tốc độ cao, tăng thu nhập cải thiện đời sống, giảm đói nghèo thu hẹp khoảng cách với các nước đi trước nâng cao vị thế của đất nước
2. Công nghiệp hoá hiện đại hoá là vận dụng tuyệt vời quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay
Để làm một việc gì đó trước hết chúng ta phải có nguồn lực có sự hiểu biết phần nào về lĩnh vực công việc đó, trước khi đi vào công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước thì chúng ta phải có tiềm lực về kinh tế về con người. Trong đó lực lượng lao động là một yếu tố quan trọng, ngoài ra có sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất đấy là nhân tố cơ bản nhất.
Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá với tiềm năng lao động lớn cần cù, thông minh và khả năng sáng tạo, nhưng máy móc của ta còn lạc hậu và tư liệu sản xuất của chúng ta rất nghèo nàn đã có tác động rất lớn đến sản xuất hàng hoá phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế ở nước ta. Đảng ta đang triển khai mạnh mẽ một số vấn đề của đất nước về công nghiệp hoá - hiện đại hoá trước hết trên cơ sở tạo ra một cơ cấu phù hợp, để phát huy được hiệu quả của quan hệ sản xuất trong bối cảnh nền kinh tế với nhiều thành phần đa dạng ở nước ta. Quy luật sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật quan trọng cần được nhận thức và thực hiện đúng đắn theo đường lỗi chỉ huy của Đảng và Nhà nước. Thời cơ lớn đang tới cùng những thử thách mới cũng đã tới buộc chúng ta phải có những giải pháp mang tính chiến lược phù hợp với công cuộc công nghiệp hoá đất nước đưa đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh là mục tiêu mà Đảng ta toàn dân ta hướng tới và quyết tâm thực hiện cho được.
3. Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội cơ sở lý luận của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá
Từ trước tới nay công nghiệp hoá - hiện đại hoá là khuynh hướng phát triển tất yếu của các nước. Đối với nước ta đi lên từ một nền kinh tế tiểu nông muốn thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, nhanh chóng đạt tới trình độ của một nước có nền kinh tế phát triển thì tất yếu chúng ta phải đẩy mạnh sự công nghiệp hoá, coi phát triển đất nước trong lĩnh vực kinh tế là một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc. Đại hội đại biểu lần thứ VIII của đảng ta đã khẳng định "xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh đảm bảo vững chắc, dân giàu

File đính kèm:

  • docT124.doc