Tiểu luận Vận dụng quan điểm triết học Mác về bản chất của con người để phân tích tầm quan trọng của nhân tố con người trong nền kinh tế tri thức
Trong các ký đại hội VI, VII, VIII của Đảng ta đã chủ trương xã hội nước ta trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 là hoàn toàn đúng đắn và sáng suốt bởi chủ trương đó xuất phát từ trình độ và hoàn cảnh cụ thể của đất nước ta về các mặt. Chúng ta, thực hiện quá trình CNH, HĐH phát triển kinh tế đất nước đã khơi dậy năng lực sáng tạo, tính chủ động của con người phát triển. Do đó, mà nền kinh tế của chúng ta đã thực sự được đổi mới và đạt được những thành tựu to lớn. Từ một nước nghèo nàn về cơ sở vật chất, lạc hậu về khoa học kỹ thuật, đói kém, thì nay ta đã đảm bảo cho dân được ăn no, và còn có sp dư thừa để xuất khẩu.
Mặc dù vậy, chúng ta vẫn còn rất nhiều khó khăn ở phía trước đòi hỏi nhà nước phải có chính sách, biện pháp khắc phục để cho sự nghiệp CNH, HĐH phát triển kinh tế đất nước đạt được kết quả.
Hơn nữa, chúng ta phải đặt vấn đề nhân lực con người lên hàng đầu phát triển đồng bộ giữa các ngành, giữa các vùng, đảm bảo nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, vị trí địa lý... Các nguồn lực này có quan hệ chặt chẽ với nhau cùng tham gia vào quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nhưng với mức độ khác nhau trong đó nguồn lực con người là yếu tố quyết định. Vai trò nguồn lực con người quan trọng như thế nào đã được chứng minh trong lịch sử kinh tế của những nước tư bản phát triển như Nhật Bản, Mỹ. Ngày nay, đối với những nước lạc hậu đi sau, không thể phát triển nhanh chóng nếu không tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật- công nghệ hiện đại của các nước phát triển. Nhưng không phải cứ nhập công nghệ tiên tiến bằng mọi giá mà không cần tính đến yếu tố con người, còn nhớ rằng công nghệ tiên tiến của nước ngoài khi được tiếp thu sẽ phát huy tác dụng tốt hay bị lãng phí thậm chí bị phá hoại là hoàn toàn phụ thuộc vào hành vi của con người khi sử dụng chúng. Đó là một điều rất đáng lưu ý. Như mọi quốc gia khác trên thế giới, sự nghiệp phát triển kinh tế ở Việt Nam cũng phải phụ thuộc vào nguồn lực con người và do nguồn lực này quyết định. Bởi những lí do sau: Thứ nhất, các nguồn lực khác như vốn tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý... chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng chúng, chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực khi được kết hợp với nguồn lực con người thông qua hoạt động có ý thức của con người. Bởi lẽ con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy có trí tuệ và có ý chí, biết lợi dụng các nguồn lực khác và gắn kết chúng lại với nhau, tạo thành một sức mạnh tổng hợp cùng tác động vào quá trình CNH-HĐH phát triển kinh tế. Các nguồn lực khác đều là khách thể chịu sự cải tạo và khai thác của con người, vì thế cho nên hết thảy chúng đều phục vụ cho nhu cầu, lợi ích con người nếu họ biết cách tác động và chi phối. Do đó trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố quan trọng nhất, là lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại. - Thứ hai, các nguồn khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt, trong khi đó nguồn lực con người là vô tận. Nó không chỉ tái sinh và tự sinh sản về mặt sinh học mà còn tự đổi mới không ngừng nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lí. Đó là cơ sở làm làm cho năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người phát triển không ngừng, nhờ vậy con người đã biết làm chủ tự nhiên, khám phá ra nhiều nguồn tài nguyên mới, phát minh ra nhiều công cụ sản xuất hiện đại hơn, đưa xã hội chuyển từ thấp đến cao. - Thứ ba, trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể hóa, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật và công nghiệp hiện đại đang dẫn nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển và vận động đến nền kinh tế của trí tuệ. Gìơ đây sức mạnh của trí tuệ đã đạt đến mức mà nhờ nó con người có thể sáng tạo ra những người máy “ bắt chước’’ hay “phỏng theo’’ những đặc tính trí tuệ của chính con người. Rõ ràng là bằng những kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay khối óc con người làm ra mà ngày nay nhân loại được chứng kiến nhiều biến đổi thần kỳ trước cả quá trình phát triển của mình. - Thứ tư, kinh nghiệm nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho thấy sự thành công của phát triển kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định đường lối chính sách cũng như cách tổ chức thực hiện của con người. Cơ cấu lao động cần cho quá trình phát triển kinh tế phải bao gồm : các chính khách, các nhà hoạch định chính sách, các học giả, các nhà kinh doanh, nhà kỹ thuật và công nghệ, các công nhân lành nghề...Nếu không có các nhà chính khách, các học giả thì khó có thể có được những chiến lược những chính sách phát triển đúng đắn. Nếu không có các nhà kinh doanh thì cũng sẽ không có những người sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn vốn nhân lực công nghệ. Sự thiếu vắng, kém cỏi của một trong các bộ phận cấu thành nhân lực trên sẽ có hại cho quá trình phát triển kinh tế đất nước. Qua toàn bộ phân tích trên đây, ta có thể đi đến kết luận rằng nguồn lực con người có vai trò quyết định cho sự thành công của quá trình phát triển kinh tế đất nước. Do vậy, muốn phát trriển kinh tế thành công thì phải đổi mới cơ bản các chính sách đầu tư cho các ngành khoa học, văn hóa, y tế, giáo dục ở Việt Nam nhằm phát triển nguồn lực con người. Đây là nhiệm vụ lớn nhất và cũng được coi là khó khăn nhất trong công cuộc đổi mới hiện nay. 2.2. Thực trạng của vấn đề đào tạo, sử dụng và phát triển con người ở Việt Nam. Xét về mặt tổng thể mà nói thì sau 10 năm thực hiện CNH-HĐH, chúng ta đã đi những bước vững chắc và quan trọng, tạo tiền đề cho quá trình phát triển sau này. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng được xác định rõ hơn. Nhưng nhìn lại nguồn lực con người Việt Nam chúng ta không khỏi băn khơăn lực lượng lao động tuy dồi dào, cần cù, sáng tạo song chất lượng còn hạn chế, sự bất hợp lý về phân công lao động, khó khăn về phân bố dân cư. Theo thống kê năm 1989 cho thấy ; nguồn lao động phân bố không đồng đều giữa các ngành các vùng :80%ở nông thôn ,70%làm trong lĩnh vực nhà nước; 14% sống, làm việc trong khu vực nhà nhà nước ; 10% lao động tiểu thủ công nghiệp; 90% lao động thủ công. Do năng suất lao động thấp nên tình trạng thiếu việc làm vẫn diễn ra thường xuyên cả ở thành thị và nông thôn, cả số lao động trong khu vực nhà nước và quốc doanh. Theo một số nhận định thì trong những năm đầu của thế kỷ này tình trạng dư thừa lao động vẫn diễn ra. Lao động ở nước ta chủ yếu là lao động phổ thông, lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp công nhân phần biên chế... Song do nhu cầu CNH, HĐH yêu cầu con người lao động phải có tay nghề, có chuyên môn thì vấn đề việc làm một nan giải. Trong quá trình CNH, HĐH đất nước hiện nay đang cần nhiều lao động có trí tuệ, có thể coi đây là điều kiện để đảm bao cho sự phát triển bền vững, nhanh chóng nền kinh tế. Trong một số năm gần đây trí thức Việt Nam phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay cả nước có khoản trên 80 vạn trí thức đã đóng góp rất lớn trong quá trình xây dựng đất nước. Song so với yêu cầu thực tế của quá trình CNH, HĐH thì con số đó quả là khiêm tốn và chất lượng còn hạn chế. Không những thế, đội ngũ tri thức ở nước ta còn phân bố không đều phần lớn tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội... và một số trung tâm công nghiệp khác. Điều đó là do tác động của cơ chế thị trường đối với sự phân công lao động trong cả nước. Do chính sách đầu tư không đảm bảo cân đối giữa các ngành, giữa các vùng nhất là vùng cao, vùng sâu, vùng xa. ở những vùng này rất ít trí thức mà nếu có thì chất lượng rất hạn chế do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan do yếu tố tâm lý của người dân tộc nên việc bồi dưỡng, nâng cao việc giáo dục đào tạo lại chưa được chú ý một cách thoả đáng. Trong khi số người được đào tạo giảm thì số sinh viên tốt nghiệp, đại học, cao đẳng, không tìm được việc làm lại tăng lên theo thống kê chưa đầy đủ thì từ năm 1988 đến nay số sinh viên tốt nghiệp ở các trường đại học, cao đẳng ở khu vực Hà Nội chưa tìm được việc làm tăng dần từ 13,4% lên 35,38* đến nay khoảng 40%. Việc số sinh viên tốt nghiệp chưa tìm được việc làm là do một số ngành đào tạo chưa được cơ chế thị trường châps nhận. 2.2.1. Ưu điểm. Cơ cấu lao động đang chuyển dịch theo hướng tăng lao động công nghiệp, lao động dịch vụ, lao động tri thức. Hội nghị Trung ương 6 khoá IX nhận định đội ngũ lao động của Việt Nam đang có bước phát triển mới: "lao động có trình độ cao đẳng trở lên tăng 17,2%/năm từ hơn 800.000 năm 1995 đến 1.300.000 năm 2000. Số lao động qua đào tạo chiếm gần 20% năm 2000". Theo Bộ Lao động thương binh - xã hội thì số người trong độ tuổi lao động là 60-66% dân số (khoảng 48,5 triệu người). Có 40,7 triệu người từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế thường xuyên (thành thị có 9,7 triệu người, nông thôn có 31 triệu người). Đặc biệt chúng ta có "mỗi năm ta có thêm 1,2 triệu việc làm mới". Ngoài ra thì người lao động còn được các trung tâm xúc tiến và giới thiệu việc làm, trung tâm đào tạo và dạy nghề giúp mình tiếp cận việc làm hoặc tự tạo việc làm cho mình. Không để sự hụt hẫng về thế hệ thì Nhà nước đã quan tâm đến vấn đề giáo dục các cấp, chúng ta đã có những thành công: "Hoàn thành mục tiêu xoá mù chữ và phổ cập tiểu học trong cả nước, bắt đầu phổ cập trung học cơ sở ở một số tỉnh đồng bằng, một số thành phố, số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gấp 6 lần. "Năm học 1999 - 2000 so với năm 1994 - 1995 số học sinh mẫu giáo gấp 1,2 lần. Trung học cơ sở gấp 1,6 lần. Trung học phổ thông gấp 2,3 lần. Đào tạo đại học gấp 3 lần.Đào tạo nghề gấp 1,8 lần". ở bậc đào tạo đại học Nhà nước không chỉ quan tâm đến số lượng học sinh vào đại học mà còn quan tâm đến ngành nghề đào tạo để phục vụ cho nhu cầu của đất nước. "Đặc biệt chú trọng đào tạo chất lượng cao một số ngành công nghệ, kinh tế và quản lý Nhà nước để đáp ứng nhu cầu nhân lực và nhân tài của đất nước. Vấn đề chăm sóc sức khoẻ cho cộng đồng được quan tâm điều này thể hiện qua kết quả. Một số bệnh viện được ânước ngoài cấp cải tạo và xây dựng mới. Trung tâm y tế chuyên sâu ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cũng được hình thành. Nhiều nơi triển khai tốt chính sách khám, chữa bệnh cho người nghèo, gia đình có công với cách mạng. 2.2.2. Hạn chế. Tuy đạt được một số thành công bước đầu nhưng chúng ta cần nhìn nhận một cách thực tế rằng đã có sự chênh lệch giữa lao động nông thôn và thành thị cả về số lượng và chất lượng. Số lao động ở nông thôn là 31 triệu người thì ở thành phố là 9,7 triệu người nhưng số lao động chưa biết chữ ở nông thôn cao gấp 6 lần ở thành thị. Số lao động qua đào tạo ở nông thôn là 11,98% còn ở thành thị là 44,6% Cũng như vậy, cơ cấu đào tạo đội ngũ lao động tính theo tỷ lệ giữa lao động có trình độ đại học, trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật là 1:1,75: 2,3 vẫn là cơ cấu bất hợp lý dẫn đến tình trạng thừa thầy, thiếu thợ, kỹ sư phải đi làm việc của công nhân kỹ thuật Hiện nay chúng ta có hơn 1 triệu cán bộ các ngành có trình độ đại học với tỷ lệ sư phạm 33,3%; khoa học kỹ thuật 25,5%; nông nghiệp 8,1%; khoa học tự nhiên 6,8% ta thấy nước ta đang còn là một nước
File đính kèm:
- T092.doc