Tiểu luận Vận dụng lý luận phương thức sản xuất phân tích nhà máy phích nước – bóng đèn Rạng Đông
MỤC LỤC
A. Phần mở đầu 1
B. Phần nội dung 2
ChươngI: các thành phần của phương thức sản xuất và mối quan hệ giưã các thành phần đó. 2
I. Lực lượng sản xuất 2
II. Quan hệ sản xuất 3
III. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất 4
ChươngII: phương thức sản xuất của nhà máy phích nước – rạng đông trước và sau cơ chế thị trường 5
I. Phương thức sản xuất trước cơ chế thị trường 5
II. Phương thức sản xuát sau cơ chế thị trường 6
ChươngIII: ứng dụng phương thức sản xuất ở nhà máy phích nước – bóng đèn rạng đông 7
I: ứng dụng lực lượng sản xuất 7
II: ứng dụng quan hệ sản xuất 8
III: kết quả được ở nhà máy phích nước – bóng đèn rạng đông hiện nay 9
C. Phần kết luận 10
thực hiện sản xuất không những thế người lao động có trình độ khoa học kỹ thuật cao đáp ứng nhu cầu phát triển của mọi thời đại kinh tế. Vì vậy cho dù tư liệu lao động có ý nghĩa lớn lao đến đâu thì cũng không phát huy được tác dụng không thể trở thành lực lượng sản xuất của xã hội chính vì vậy mà lê nin viết: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại là công nhân là người lao động”. II. Quan hệ sản xuất : thế nào là quan hệ sản xuất ? quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất . các yếu tố của quan hệ sản xuất . quan hệ về tư liệu sản xuất quan hệ về tổ chức quản lý quan hệ phân phối sản phẩm lao động vai trò của mỗi yếu tố của quan hệ sản xuất quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất trong ba yếu tố của quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với tất cả các quan hệ khác. bởi có hai hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất đó là sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội đây là những quan hệ kinh tế hiện thực giữa người với người trong xã hội. quan hệ tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm đối với quan hệ sản xuất thì hai yếu tố này có vai trò quan trọng góp phần củng cố quan hệ sản xuất và nó cũng có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu. nói tóm lại hệ thống quan hệ sản xuất thống trị trong mỗi hình thái kinh tế- xã hội quyết định bản chất và bộ mặt của hình thái kinh tế- xã hội ấy. III. mối quan hẹ giữa lực lượng sản xuất va quan hệ sản xuất Trong bất cứ giai đoạn nào của xã hội thì lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn là hai mặt của phương thức sản xuất chúng tồn tại không tách rồi nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau. hình thành quy luật xã hội phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người, quy luật về sự phù hợp với quan hệ sản xuất và tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trình độ lao động của lực lượng sản xuất thể hiện ở trình độ phát triển của công cụ lao động kỹ thuật trình độ và kinh nghiệm, kỹ năng lao động, quy mô sản xuất, trình độ phân công lao động trong xã hội. Trình độ của lực lượng sản xuất càng cao thì phân công lao động càng thể hiện rõ ràng. cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất , quan hệ sản xuất cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó là động lực cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ . nhưng lực lượng sản xuất thường phát triển nhanh, còn quan hệ sản xuất có xu hướng tương đối ổn định. Khi lực lượng sản xuất đã phát triển lên một trình độ mới , quan hệ sản xuất cũ không còn phù hợp với nó nữa, trở thành chướng ngại đối với sự phát triển của nó. sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gát giữa hai mặt của phương thức sản xuất. Sự phát triển khách quan đó tất yếu đó dẫn đến việc xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.Việc xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là sự diệt vong của phương thức sản xuất đã lỗi thời và sự ra đời của một phương thức sản xuất mới. Trong xã hội có giai cấp đối kháng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất lỗi thời là cơ sở khách quan của các cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời cũng là tiền đề tất yếu của các cuộc cách mạng xã hội. Chương II: phương thức sản xuất của nhà máy phích nước – bóng đèn rạng đông trước và sau cơ chế thị trường I . phương thức sản xuất trước cơ chế thị trường Nhà máy phích nước – bóng đèn rạng đông được sản xuất và đi vào hoạt động từ năm 1961. trong một thời gian dài, trong điều kiện nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung nên sản phẩm của nhà máy thuộc diện bán hàng phân phối, Nên không gay khó kghăn về tiêu thụ sản phẩm. lực lượng sản xuất. đất nước ta vừa mới trải qua hai cuộc chiến tranh ác liệt lên đã làm cho nền kinh tế bị suy kiệt trầm trọng. Nhu cầu và khả năng lắm bắt sản phẩm của người dân không cao vả lại cũng không có điều kiện để lắm bắt sản phẩm của các nước khác, trong khu vực lại vừa rẻ lại chất như hàng hoá cùng loại của trung quốc lên chủ yếu là: “người việt nam dùng hàng việt nam”. hơn nữa tư liệu lao động đặc biệt là trang thiết bị máy móc cũ kỹ, lạc hậu chỉ cho phép tạo ra những sản phẩm có: “chất lượng không cao, mẫu mã, giá thành không phù hợp với nhu cầu của người dân”. mặt khác ngưòi lao động chưa có trình độ chuyên môn, đa phần họ chỉ là công nhân, nông dân chưa quen sản xuất công nghiệp chỉ có một số rất ít người có tay nghề. vì vậy hai yếu tố người lao động, và trang thiết bị máy móc nay chỉ có thể phù hợp với thực trạng nền kinh tế nước ta thời đó mà thôi. quan hệ sản xuất dưới sự quản lý và điều tiết của cơ chế tập trung bao cấp của nhà nước thì không riêng gì nhà máy phích nước – bóng đèn rạng đông mà các nhà máy khác cũng trong điều kiện như vậy. được sự bao bọc của nhà nước từ khâu phân phối cho tới tiêu thụ sản phẩm.chính hình thức bán hàng phân phối này đã không gây khó khăn gì cho việc tiêu thụ. Hơn nữa vì nhà nước quản lý nên không có sự sở hữu tư nhân ở đây mà chỉ có quan hệ sở hữu nhà nước tư liệu sản xuất. Mặt khác về tổ chức quản lý của nhà máy quá cồng kềnh đồ số về số lượng cán bộ, công nhân mà không có hình thức tinh giản bộ máy sản xuất. Vì thế mà quan hệ sản xuất ở đây chỉ là nhân tố bị động dưới sự quản lý của nhà nước, số lượng tập thể thì đông nhưng sức mạnh tập thể thì không có mà sức mạnh cá nhân thì càng không có. chính vì vậy mà cả hai yếu tố lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chỉ có thể đáp ứng đòi hỏi trước mắt của nhân dân ta về sự thiếu thốn sản phẩm mà chưa kể đến nhu cầu và thị hiếu của người dân. II. phương thức sản xuất sau cơ chế thị trường Từ 1980-1990 sau khi chuyển sang cơ chế thị trường dưới sự tràn ngập của sản phẩm của nước ngoài đặc biệt là của trung quốc về “ chất lượng cao, mẫu mã đẹp và giá thành rẻ” thì sản phẩm của nhà máy không còn đáp ứng được nhu cầu của người dân. lên kinh tế của nhà máy đã trở lên thua lỗ nhiều lúc đã phải ngừng hoạt động một thời gian dài (6 tháng liền) làm cho công nhân và cán bộ nhà máy trở lên bi quan dẫn tới mất đoàn kết nội bộ. lực lượng sản xuất trong giai đoạn này thì với công nhân chủ yếu là nông dân , quân nhân không có trình độ chuyên môn. vì vậy mà tay nghề và trình độ của công nhân không thể đáp ứng được nhu cầu đói hỏi của sản xuất nữa. hơn nữa máy móc quá cũ lạc hậu không cho phép tạo ra những sản phẩm “có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, hấp dẫn ,giá rẻ” . vả lại nhiên liệu sản xuất thấp, có chất lượng kém như dây tóc bóng đèn , dẫn tới tuổi thọ ngắn, khả năng giữ nhiệt của phích nước rất kém. Do vậy mà sản phẩm không thể đáp ứng được nhu cầu của người dân . tất cả những yếu tố đó đã đưa sản phẩm của nhà máy tới chỗ không có sức cạnh tranh với hàng ngoại nhập (trung quốc) đang tràn ngập thị trường khi đó . quan hệ sản xuất sau khi nhà nước ta chuyển sang cơ chế thị trường bởi nhận thấy cơ chế tập trung quan liêu bao cấp không còn phù hợp nữa.hình thức bán hàng phân phối đã bị xoá bỏ và không còn tồn tại nữa,đã đưa nhà máy vào tình trạng phải tự tìm đầu ra cho sản phẩm, phải tự vận động để tồn tại .hơn nữa bộ máy sản xuất lớn với số lượng lớn công nhân và cán bộ có tay nghề không thích hợp với điều kiện sản xuất . chính vì vậy mà khó khăn lại càng khó khăn hơn nhà máy rơi vào tình trạng làm ăn thua lỗ kéo dài (năm 1960 là 16 tỷ đồng) nói tóm lại nguyên nhân cơ bản dẫn tới thực trạng nhà máy làm ăn thua lỗ là do lực lượng sản xuất chỉ cho phép tạo ra những sản phẩm không đáp ứng được nhu cầu người dân “do tính cạnh tranh của sản phẩm không cao”. quan hệ sản xuất với “ số lượng cán bộ công nhân quá nhiều không có trình độ và tay nghề cao”. Chính hai thành phần này đã làm cho nhà máy bị lung lay trong tình trạng đóng cửa trước cơ chế thị trường . Chương III: ứng dụng phương thức sản xuất ở nhà máy phích nước –bóng đèn dạng đông . I .ứng dụng lực lượng sản xuất 1. người lao dộng trước tình hình đó nhà máy dã quyết định đào tạo lại ,bồi dưỡng nâng cao trình độ và kỹ năng chuyên môn cho những công nhân còn lại ở nhà máy. đào tạo đội ngũ nhân lực có trình độ cao - đưa lao động ra nước ngoài để học hỏi tiếp thu kinh nghiệm quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh 2. tư liệu lao động đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ sản xuất và trang thiết bị máy móc phù hợp với điều kiện sản xuất, trình độ lao động nguyên liệu trong nước, đẩy mạnh phát triển phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật vào sản xuất và quản lý để nâng cao chất lượng hạ giá thành sản phẩm, cải tiến mẫu mã hàng hoá , tất yếu phải đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ sản xuất. nhất là việc nhà máy đã quyết định mua và sử dụng các thiết bị hiện đại nhất của trung quốc để có sức cạnh tranh với hàng hoá cùng loại của nước ngoài đang tràn ngập thị trường nội địa ( nhất là hàng trung quốc) đang làm lũng đoạn thị trường việt nam. Mặt khác nhà máy đã tổ chức huy động vốn một cách sáng tạo, việc mua dây truyền công nghệ cao, thiết bị hiện đại đòi hỏi phải có ngay một số vốn rất lớn mà nhà máy trong tình trạng như vậy nên việc vay vốn ngân hàng rất khó khăn và phức tạp. do vậy mà nhà máy đã quyết định để công nhân tham gia đóng góp ý kiến. chính vì vậy mà nguồn vốn của nhà máy được tích luỹ từ quỹ khen thưởng, và số tự có của công nhân chưa dùng đến cho công ty vay. Vì thế mà trong một thời gian ngắn năm 1994 công ty đã có một số vốn rất lớn 20 tỷ đồng để giải quyết vấn đề đổi mới máy móc, thiết bị, dây truyền công nghệ cao. (năm 1992 là công ty phích nước – bóng đèn rạng đông ) II quan hệ sản xuất Nhà máy đã phát huy trí tụê tập thể, củng cố tổ chức sắp xếp bộ máy sản xuất tinh giản bộ máy cán bộ, công nhân được chọn làm khâu “đột phá”.Lãnh đạo nhà máy đã nhanh chóng giảm số cán bộ và công nhân có trình độ và tay nghề không thích hợp với điều kiện sản xuất. Nhưng việc tinh giản bộ máy luôn luôn là vấn đề phức tạp, để tránh xảy ra thắc mắc có thể dẫn tới mất đoàn kết nội bộ, cũng như tránh tinh giản một cách thô bạo mà lãnh đạo nhà máy đã tổ chức “ hội nghị diên hồng” để báo cáo trước đảng viên và quần chúng về tình
File đính kèm:
- T025.doc