Tiểu luận Vấn đề đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
A- Đặt vấn đề
I- Lý do chọn đề tài
II- Đề cương khái quát
B- Nội dung
I- Cơ sở triết học của đề tài
1- Phương thức sản xuất
2- Lực lượng sản xuất
3- Quan hệ sản xuất
4- Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất
II- Cơ sở lý luận của quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa
1- Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2- Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
3- Tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
4- Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
a- Trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại theo hướng hiện đại
hóa các ngành của nền kinh tế quốc dân
b- Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội
III- Vấn đề đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong
quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở Việt Nam
IV- Những thành tựu Việt Nam đã đạt được
V- Những kiến nghị, đề xuất
C- Kết luận
D- Tài liệu tham khảo
thức sản xuất. Nhưng không phải bất cứ nước nào cũng phải nhất thiết, tuần tự trải qua tất cả các phương thức sản xuất mà loài người đã biết đến. Thự tế phát triển của lịch sử nhân loại cho thấy, tùy theo điều kiện lịch sử- cụ thể, một số nước có thể bỏ qua một hoặc một số phương thức sản xuất để tiến lên phương thức sản xuất mới cao hơn. Đó chính là sự biểu hiện của quy luật chung trong điều kiện cụ thể của mỗi nước. Quy luật chung chi phối sự vận động phát triển của tất cả các nước; còn hình thức, bước đi cụ thể lại tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước. II- Cơ sở lý luận của quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa 1-Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển và tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. 2- Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa Mỗi phương thức sản xuất xã hội nhất định có một cơ sở vật chất- kỹ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất của một xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội phù hợp với trình độ kỹ thuật( công nghệ) tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng, tác động vào để sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu xã hội. Chỗ dựa để xem xét sự biến đổi của cơ sở vật chất- kỹ thuật của một xã hội là: sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất; sự phát triển khoa học- kỹ thuật; tính chất và trình độ của các quan hệ xã hội, đặc biệt là quan hệ sản xuất thống trị. Nói cơ sở vật chất- kỹ thuật của một phương thức sản xuất nào đó là nói cơ sở vật chất- kỹ thuật đó đạt đến một trình độ nhất định làm đặc trưng cho phương thức sản xuất đó được khẳng định sự thay thế phương thức sản xuất cũ và được phát triển đúng trên cơ sở bản thân nó. Đặc trưng của cơ sở vật chất- kỹ thuật của các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản là dựa vào công cụ thủ công, nhỏ bé, lạc hậu. Cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản, đặc trưng của nó là nền đại công nghiệp cơ khí hóa và chỉ khi xây dựng xong cơ sở đó, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới trở thành phương thức sản xuất thống trị. Chủ nghĩa xã hội- giai doạn thấp của phương thức sản xuất mới cao hơn chủ nghĩa tư bản- đòi hỏi một cơ sở vật chất- kỹ thuật cao hơn trên cả hai mặt: trình độ kỹ thuật và cơ cấu sản xuất, gắn với thành tựu của cách mạng khoa học- kỹ thuật hiện đại. Do vậy có thể hiểu: Cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội sẽ là nền công nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao dựa trên trình độ khoa học- công nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Từ chủ nghĩa tư bản hay từ trước chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan và được thực hiện thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là vì: cơ sở vật chất- kỹ thuật là điều kiện trọng yếu nhất, quyết định nhất có liên quan đến sự phát triển về chất đối với lượng sản xuất, và năng suất lao động; đối với việc đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội và đối với sự thắng lợi cuối cùng của chủ nghĩa xã hội. Có hai loại nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội: các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa( các nước có nền kinh tế kém phát triển). Đối với những nước phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những nước này đã có sẵn nền đại công nghiệp của chủ nghĩa tư bản để lại cho nên chỉ cần điều chỉnh nền đại công nghiệp đó theo yêu cầu của chủ nghĩa xã hội thì về cơ bản đã có cơ sở vật chất- kỹ thuật của xã hội mới. Do đó, vấn đề công nghiệp hóa không cần phải đặt ra. Sở dĩ chúng ta phải điều chỉnh nền đại công nghiệp cơ khí của chủ nghĩa tư bản theo yêu cầu của xã hội vì nền đại công nghiệp cơ khí của chủ nghĩa tư bản dù hiện đại đến đâu chỉ là tiền đề vật chất cho xã hội mới chứ chưa phải là cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội vì nó dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, phân bố không đều giữa xá ngành, vùng do đó tất yếu phải điều chỉnh nó. Đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, những nước này nền kinh tế lạc hậu chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, muốn có cơ sở vật chất- kỹ thuật của nền sản xuất lớn, hiện đại thì phải tất yếu tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tất yếu khách quan vì: + Nó là con đường duy nhất để tạo ra sự phát triển về chất đối với lực lượng sản xuất và năng suất lao động. Chất của lực lượng sản xuất là hệ thống công cụ lao động hiện đại với trình độ công nghệ hiện đại. + Công nghiệp hóa tạo điều kiện để đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội bởi vì công nghiệp hóa sẽ làm cho lực lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động tăng, khối kượng của cải sản xuất ra ngày càng nhiều tù đó mới có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội nói chung và của con người nói riêng. + Là con đường duy nhất để đảm bảo sự thắng lợi cuối cùng vủa chủ nghĩa xã hội. Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa không những là tất yếu mà còn là điều kiện sống còn của chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hóa là tất yếu khách quan đối với những nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong đó có nước ta. 3- Tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Tạo điều kiện biến đổi về chất lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng sức chế ngự của con người đối với tự nhiên, tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế; do đó góp phần ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân; góp phần quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. - Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước; nâng cao năng lực tích lũy, tăng công ăn việc làm, nhờ đó làm tăng sự phát triển tự do và toàn diện trong mọi hoạt động kinh tế của con người- nhân tố trung tâm của nền sản xuất xã hội. - Tạo điều kiện vật chất cho tăng cường củng cố an ninh và quốc phòng. - Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế dân tộc tự chủ, đủ sức thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế. Sự phân tích trên cho thấy mối quan hệ gắn bó trực tiếp giữa công nghiệp hóa với lực lượng sản xuất. Công nghiệp hóa là để thực hiện xã hội hóa về mặt kinh tế, kỹ thuật theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó có tác dụng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng và toàn diện; do vậy, Đảng ta cho rằng: “ Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước... là nhiệm vụ trung tâm”( 10) của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 4- Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa a- Trang bị kỹ thuật và công nghệ theo hướng hiện đại trong các ngành của nền kinh tế quốc dân Nội dung này được thực hiện qua hai cách: * Tiến hành cách mạng khoa học- kỹ thuật, xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật để tự trang bị Thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng kỹ thuật: cuộc cách mạng kỹ thuật mà nội dung chủ yếu của nó là cơ khí hóa xuất hiện đầu tiên ở nước Anh vào ba mươi năm cuối thế kỷ XVIII và hoàn thành vào những năm 50 đầu thế kỷ Xĩ. Đến khoảng giữa thế kỷ XX xuất hiện cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại. Mờy thập niên đã qua, nhất là thập niên gần đây loài người đang chứng kiến những thay đổi rất to lớn, trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội. Cuộc cách mạng này có nhiều nội dung, song có 5 nội dung chủ yếu sau - Về tự động hóa: Máy tự động quá trình, máy công cụ điều khiển bằng số, rô bốt. - Về năng lượng: Ngoài những dạng năng lượng truyền thống( nhiệt điện, thủy điện) ngày nay đã và đang chuyển sang lấy dạng năng lượng nguên tử là chủ yếu. - Về vật liệu mới: chỉ trong khoảng chưa đầy 40 năm lại đây các vật liệu mới đã xuất hiện với chủng loại rất phong phú và có nhiều tính chất đặc biệt mà vật liệu tự nhiên không có được. Thí dụ: vật liệu tổ hợp hay còn gọi là composit với các tính chất mong muốn; gốm zin côn hoặc các- bua- si- lích chịu nhiệt cao... - Về công nghệ sinh học: công nghệ vi sinh, kỹ thuật cuzin, kỹ thuật gen và nuôi cấy tế bào được ứng dụng ngày càng nhiều trong công nghiệp, nông nghiệp, y tế, hóa chất, bảo vệ môi trường... Vào khoảng những năm 80, cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật( hay công nghệ) hiện đại chuyển sang giai đoạn thứ ba- giai đoạn có nhiều quan điểm khác nhau đặt tên gọi cho nó. Tương ứng với giai đoạn thứ ba cuộc cách mạng này còn có một nội dung mới: điện tử và tin học. - Về điện tử và tin học: một lĩnh vực vô cùng rộng lớn và hấp dẫn, nhất là lĩnh vực máy tính, diễn ra theo 4 hướng nhanh( máy siêu tính); nhỏ( vi tính); máy tính có xử lý kiến thức( trí tuệ nhân tạo); máy tính nói từ xa( viễn tin học). Cuộc cách mạng này có hai đặc trưng chủ yếu: Một là, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Cách đây hơn 100 năm C. Mác đã từng dự đoán về mối quan hệ và sự phát triển giữa khoa học và lực lượng sản xuất. Người viết “ Thiên nhiên không tạo ra máy móc, đầu xe lửa điện báo... tất cả các thứ đó là thành quả của bộ óc con người, được bàn tay con người tạo ra là sức mạnh tri thức đã được vật hóa. Sự phát triển vốn cố định là chỉ tiêu cho thấy rằng tri thức xã hội chung đã biến thành lượng sản xuất với mức độ cao, và do đó cũng là chỉ tiêu nói lên mức độ phụ thuộc và biến đổi của chính những điều kiện hoạt động xã hội với trí tuệ chung”( 11). Nói khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là nó bao gồm cả khoa học tự nhiên- kỹ thuật lẫn khoa học- xã hội, nhất là khoa học kinh té; nó do con người tạo ra thông qua con người- nhân tố trung tâm- nhân tố chủ thể- đến lực lượng sản xuất. Nó đòi hỏi phải có chính sách đầu tư đúng đắn cho khoa học kỹ thuật. Ngày nay, bất cứ sự tiến bộ nào của kỹ thu
File đính kèm:
- T018.doc