Tiểu luận Tìm hiểu mối quan hệ giữa phân công lao động xã hội và xã hội hoá sản xuất qua một số tác phẩm thời kỳ đầu của Mac

Mở đầu

Chương I: Phân công lao động xã hội cơ sở tiền đề xuất phát của sức sản xuất.

Chương II: Xã hội hoá sản xuất, vai trò của nó đối với sự phát triển sức sản xuất.

Chương III: Mối quan hệ giữa phân công lao động và xã hội hoá sản xuất

Chương IV: Đảng ta quán triệt và vận dụng những quan điểm của Mac về mối quan hệ giữa phân công lao động xã hội và xã hội hoá sản xuất

Kết luận

Tài liệu tham khảo

 

 

doc14 trang | Chia sẻ: Thewendsq8 | Lượt xem: 1670 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu mối quan hệ giữa phân công lao động xã hội và xã hội hoá sản xuất qua một số tác phẩm thời kỳ đầu của Mac, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g cũng ngày càng tỉ mỉ thêm..".
Phân công lao động xã hội biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở tiền đề xuất phát của sức sản xuất.
Chương II
Xã hội hoá sản xuất - vai trò của nó đối với 
sự phát triển sức sản xuất
Sản xuất bao giờ cũng mang tính chất xã hội. Ngay trong buổi bình minh của lịch sử, trong quá trình hái lượm, săn bắt theo bầy, đàn không có hoạt động sản xuất nào diễn ra độc lập. Tính xã hội của sản xuất không chỉ tồn tại trong buổi đầu hình thành xã hội con người, mà còn phát triển cao hơn trong điều kiện xã hội hiện đại. Tính xã hội hoá của sản xuất phát triển từ thấp lên cao gắn liền với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong tiến trình phát triển của lịch sử. Trong các xã hội gắn liền với nền sản xuất nhỏ, kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp, các hoạt động kinh tế trong xã hội thường được tiến hành bởi các đơn vị kinh tế độc lập với nhau, hoặc nếu có quan hệ với nhau cũng chỉ là quan hệ tập hợp theo số cộng đơn thuần, chưa có quan hệ hữu cơ với nhau. Nền sản xuất ở đây tuy mnag tính chất xã hội nhưng nền sản xuất vẫn chưa xã hội hoá. Bởi vậy, nếu xem xét xã hội hoá sản xuất với tư cách là một hệ thống hữu cơ, thì xã hội hoá sản xuất trực tiếp gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất lớn trong lịch sử.Từ đó có thể hiểu: xã hội hoá sản xuất là sự liên kết nhiều quá trình kinh tế riêng biệtt hành quá trình kinh tế xã hội, tồn tại hoạt động và phát triển liên tục như một hệ thống hữu cơ. Đó là quá trình kinh tế khách quan phù hợp với trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất, phản ánh xu thế phát triển tất yếu mang tính chất xã hội của sản xuất. Việc tạo nên những tổ chức, những quan hệ kinh tế mới đáp ứng yêu cầu và phản ánh quá trình kinh tế khách quan kể trên là sự xã hội trên thực tế.
Xã hội hoá sản xuất là quá trình kinh tế khách quan của sự phát triển tính xã hội hoá của sản xuất. Sự vận động và phát triển của xã hội hoá sản xuất được quy định bởi sự phát triển biện chứng giữa lực lượng sản xuất xã hội và quan hệ sản xuất xã hội. Xã hội hoá sản xuất được biểu hiện ở trình độ phát triển của phân công và hiệp tác lao động. Phân công lao động phát triển cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, phân công lao động tạo ra sự trao đổi và hợp tác lao động. Hình thức đầu tiên, đơn giản nhất là hiệp tác giản đơn. Với hình thức này lần đầu tiên lao động được xã hội hoá, "người lao động, tổng hợp" xuất hiện. Tiếp đến là sự phân công trong công trường thủ công gắn liền với sự chuyên môn hoá công cụ thủ công dựa trên tay nghề của người lao động. Máy móc ra đời là một nấc thang mới của sự phát triển lực lượng sản xuất, là nền sản xuất dựa trên lao động cơ khí, khi mà hiệp tác lao động thực sự trở thành "tất yếu kỹ thuật" lấy máy móc làm chủ thể. Đến lượt mình, đại công nghiệp cơ khí thúc đẩy sự phân công lao động và hiệp tác lao động lên trình độ mới cao hơn.
Xã hội hoá sản xuất biểu hiện ở mối quan hệ giữa các ngành, các vùng, các khu vực ngày càng cao và chặt chẽ. Mối liên hệ này không chỉ diễn ra trên lĩnh vực lưu thông mà còn diễn ra trong lĩnh vực đầu tư, hợp tác khoa học - công nghệ, phân công và hợp tác sản xuất dưới các hình thức liên doanh, liên kết phong phú đa dạng. Sự liên kết này có tính liên kết xí nghiệp, liên ngành và liên quốc gia.
Xã hội hoá sản xuất biểu hiện ở các hình thức sở hữu, từ sở hữu riêng độc lập tới sở hữu chung, sở hữu tập thể, sở hữu Nhà nước, của các hình thức tổ chức sản xuất từ công ty tư nhân tới công ty liên doanh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, các hợp tác xã, các doanh nghiệp Nhà nước.
Xã hội hoá sản xuất còn biểu hiện ở tính chất xã hội hoá của sản phẩm. Trong nền sản xuất xã hội hoá sản xuất sản phẩm sản xuất ra phải qua tay nhiều người, nhiều công đoạn sản xuất. Ngày nay, trong điều kiện phân công chuyên môn hoá và hợp tác quốc tế, thì một sản phẩm không chỉ do một quốc gia một công ty sản xuất ra mà có thể do nhiều công ty thuộc nhiều mức sản xuất ra.
Xã hội hoá sản xuất là xu hướng khách quan của sự phát triển tính xã hội của sản xuất, chịu sự chi phối của trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất, của quan hệ sản xuất. Khi nền kinh tế còn mang tính chất tự cung tự cấp thì trình độ xã hội hoá sản xuất rất thấp. Khi xuất hiện sản xuất hàng hoá thì trình độ xã hội hoá sản xuất của nền sản xuất xã hội tăng lên. Cho đến khi sản xuất hàng hoá trở thành tổ chức sản xuất thống trị trong nền kinh tế cũng là lúc hình thành kinh tế thị trường thì trình độ xã hội hoá sản xuất mới đạt trình độ cao, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Bởi vậy, trình độ phát triển, tính chất và đặc điểm của xã hội hoá sản xuất gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế trên các mặt: sự phát triển của lực lượng sản xuất của cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế, của hệ thống công cụ và tư liệu lao động, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, của trình độ phát triển của phân công lao động xã hội.
Các yếu tố trên càng phát triển, trình độ càng hiện đại thì tính chất xã hội hóa sản xuất càng cao. Tính chất và trình độ phát triển của quan hệ sản xuất mà trước hết là các hình thức và quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, sở hữu càng được giải thoát khỏi sở hữu tư nhân, cá thể, càng hình thành và phát triển các hình thức sở hữu xã hội như sở hữu tập thể, sở hữu Nhà nước thì quy mô của sở hữu càng lớn, tính chất xã hội hoá của sản xuất càng cao.
chương III
Mối quan hệ giữa phân công lao động 
và xã hội hoá sản xuất
Sự phân công lao động bên trong một dân tộc trước hết đưa tới sự tách rời giữa một bên là lao động công nghiệp và thương nghiệp và một bên là lao động nông nghiệp, và do đó đưa tới sự tách rời giữa thành thị và nông thôn và sự đối lập quyền lợi của hai bên. Sự phát triển sau này của nó dẫn tới sự tách rời giữa lao động thương nghiệp với lao động công nghiệp. Đồng thời do sự phân công lao động bên trong các ngành khác nhau, nên sự phân công giữa những cá nhân cùng lao động với nhau trong một ngành lao động cũng ngày càng tỉ mỉ thêm. Mối quan hệ lẫn nhau giữa những sự phân công tỉ mỉ đó là do phương thức kinh doanh lao động nông nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp quyết định. Những mối quan hệ như thế cũng xuất hiện khi sự giao tiếp đã phát triển hơn trong sự liên hệ giữa các dân tộc khác nhau.
Trong mối quan hệ giữa phân công lao động và xã hội hoá sản xuất được thể hiện ở chỗ: Phân công lao động là cơ sở, tiền đề xuất phát của sức sản xuất. Còn xã hội hoá sản xuất có vai trò phát triển sức sản xuất.
Quá trình phân công lao động và xã hội há sản xuất là hai mặt không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cáhc biện chứng. Phân công lao động là cơ sở tiền đề xuất phát của sức sản xuất, được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất. Sự phát triển của phân công lao động xã hội làm phát triển sức sản xuất. Sự phát triển của sức sản xuất quyết định và làm thay đổi tính xã hội hoá của sản xuất cho phù hợp với nó. Tất cả các mặt của xã hội hoá sản xuất đều tạo điều kiện cho phân công lao động phát triển. Điều đó có nghĩa là nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó sức sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó. Xã hội hoá sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ và do tác động đến sự phát triển của sức sản xuất. Tổ chức phân công lao động xã hội phù hợp với xã hội hoá sản xuất là động lực thúc đẩy mở đường cho sức sản xuất phát triển.
Quá trình chuyển từ nền kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá phản ánh sự phát triển trình độ xã hội hoá sản xuất. Tiến trình phát triển của kinh tế hàng hoá từ kinh tế hàng hoá giản đơn lên kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa, kinh tế thị trường hiện đại là tiến trình phát triển từ thấp lên cao của trình độ xã hội hoá sản xuất. Mà để có thể phát triển được kinh tế thị trường thì tất yếu nó phải xuất phát từ quá trình phân công lao động xã hội. Như vậy phân công lao động xã hội phản ánh trình độ xã hội hoá sản xuất.
Xã hội hoá sản xuất không ngừng được tăng lên cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường. Trình độ của xã hội hoá thể hiện ở trình độ phát triển kinh tế thị trường và đến lượt mình kinh tế thị trường càng phát triển càng phá vỡ tính chất khép kín, biệt lập của các chủ thể kinh tế, của các vùng, các địa phương và của các quốc gia, thu hút chúng vào quá trình kinh tế thống nhất tức là phân công lao động xã hội càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Sự phát triển kinh tế thị trường là sự thể hiện xã hội hoá sản xuất và trình độ xã hội hoá sản xuất cao do kinh tế thị trường tạo ra lại đòi hỏi phải có sự quản lý Nhà nước phân công lao động xã hội một cách hợp nhất.
Chương IV
Quán triệt và vận dụng những quan điểm của mác 
về liên hệ giữa phân công lao động và xã hội hoá
 sản xuất trong thời kỳ đổi mới của đảng ta
Để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa, điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế xã hội, phải xây dựng một nền kinh tế xã hội thật tiên tiến. Muốn vậy một trong vấn đề đảng và nhà nước ta phải quán triệt đó là vận dụng quan điểm của Mac về mối liên hệ giữa phân công lao động và xã hội hoá sản xuất trong thời kỳ đổi mới.
Xã hội hoá sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất được coi là nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phát triển lực lượng sản xuất. Công nghiệp hoá hiện đại hoá là quá tr

File đính kèm:

  • docT095.doc