Tiểu luận Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý

Những bước phát triển gì nữa sẽ đặt ra cho nền kinh tế Việt Nam trước thềm thiên niên kỷ mới? Đổi mới kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải chăng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thời đại ? Tất nhiên, những câu trả lời cho vấn đề ấy còn đang nằm ở phía trước. Song chắc chắn, với con đường đi đúng đắn và sự lựa chọn quyết đoán của Đảng và Nhà nước, chúng ta sẽ gặt hái được rất nhiều thành tựu mới. Nhà nước sử dụng các đòn bẩy kinh tế trong kế hoạch hoá trực tiếp và kế hoach hóa gián tiếp để đảm bảo thực hiện những phương hướng, mục tiêu của kế hoạch kinh tế quốc dân. Khi đi đúng vào tiến trình lịch sử của nhân loại, tất yếu chúng ta sẽ không bị lạc hậu, tụt lùi mà ngày càng có vị thế, phát triển mạnh mẽ hơn. Hy vọng chỉ một thời gian không lâu nữa nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển vượt bậc, phát triển có cơ sở vững chắc, đứng vào vị trí những nước có nền kinh tế tăng trưởng mạnh trên thế giới.

 

 

doc18 trang | Chia sẻ: Thewendsq8 | Lượt xem: 1589 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức còn phải luôn luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Vì thế mà thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức vừa là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Và khi nhấn mạnh điều này thì V.I. Lênin đã viết: "Quan điểm về đời sống và thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức".
- Chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn, quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, độ sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, việc nghiên cứu phải liên hệ với thực tiễn tức là "học phải đi đôi với hành". Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu, không xác định được quy luật, không phân biệt được quy luật đó có hợp quy luật hay không có là tri thức đúng (chân lý) hay không nhưng nếu tuyệt đối hóa thì sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa nên đòi hỏi chúng ta phải có cái nhìn đúng đắn thì mới xác định được quy luật hợp chân lý.
- Những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm chính là những tri thức đúng, có đúng thời mới phù hợp được với hiện thực khách quan còn tri thức sai, sai lầm thì không thể phù hợp với hiện thực khách quan được.
b) Chân lý có tính cụ thể, có đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh với một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Thực tiễn lại có "tính phổ biến" và là "hiện thực trực tiếp" nhờ đó thực tiễn có thể "vật chất hoá" được tri thức, biến tri thức thành các khách thể vật chất có tính xác thực cảm tính.
- Mỗi tri thức đúng đắn bao giờ cũng có một nội dung nhất định, nội dung đó luôn gắn liền với đối tượng xác định, diễn ra nên bất kỳ chân lý nào cũng gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể.
- Việc nắm vững những nguyên tắc về tính cụ thể của chân lý có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn. Việc xem xét, đánh giá mỗi sự vật, hiện tượng, mỗi việc làm phải dựa trên quan điểm lịch sử - cụ thể để vận dụng vào thực tiễn và xác định được rõ chân lý.
- Nhận thức là những tri thức về bản chất quy luật của hiện thực, của thực tiễn, mà thực tiễn lại còn là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức để từ đó giúp con người hiểu và biết thêm được về các quy luật, đã là quy luật thì không thể phủ định được và sẽ tồn tại và là chân lý.
c) Tiêu chuẩn thực tiễn vừa mang tính tuyệt đối vừa mang tính tương đối. Tuyệt đối vì nó là tiêu chuẩn khách quan duy nhất, tương đối vì bản thân thực tiễn luôn luôn biến đổi, phát triển. Sự biến đổi này dẫn đến chỗ tiếp tục bổ sung, phát triển những tri thức đã có trước đó.
- Chân lý cũng là khách quan, là sự thống nhất giữa hai trình độ, chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối thì điều đó cũng có nghĩa là nhận thức phải trải qua một quá trình đi từ chưa biết đầy đủ đến biết đầy đủ hơn về sự vật, hiện tượng. Mà thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp của nhận thức, là mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra độ chuẩn xác trong kết quả nhận thức. Mà nhận thức là một quá trình có tính tích cực, chủ động và sáng tạo của những hoạt động vật chất có tính mục đích, lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo thế giới.
- Một chân lý luôn có tính đích thực, xác thực và luôn được thực tiễn kiểm nghiệm bởi chân lý là sản phẩm của quá trình nhận thức con người là tri thức đúng.
- Chính trong thực tiễn mà con người chứng minh được chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy.
- Thực tiễn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau nên các hình thức kiểm nghiệm bằng thực tiễn đối với tri thức là chân lý cũng khác nhau, có thể là tiến hành thực nghiệm, là áp dụng những phát minh vào thực tế thành công
II. Sự vận dụng vào đổi mới ở Việt Nam 
1. Tính cấp thiết của đổi mới
- Đổi mới để gắn liền với hoạt động thực tiễn phù hợp với những chủ trương, đường lối hiện nay của Đảng ta, để gắn lý luận, nhận thức với thực tiễn từ đó giúp cho sự nhận thức của chúng ta về các quy luật và trên cơ sở đó đề ra được đường lối cách mạng đúng đắn trong công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng ta hiện nay.
- Chúng ta phải đổi mới để tranh thủ cơ hội, thách thức, biết tận dụng, khai thác sử dụng có hiệu quả những thành tựu mà nhận thức dã đạt được để rút ngắn thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Nhằm phù hợp với xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá sản xuất nhằm phù hợp với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ để tiếp thu và vận dụng.
- Đổi mới để phù hợp với xu thế của thời đại đi lên chủ nghĩa xã hội mới giữ vững được độc lập, tự do cho dân tộc, mới thực hiện được mục tiêu làm cho moi người dân được ấm no, tự do, hạnh phúc.
- Nhằm tạo nên vị thế mới, phù hợp giữa tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất mới cũng như để đáp ứng cho phù hợp giữa nhận thức, lý luận thực tiễn để từ đó tìm ra quy luật phù hợp với bước phát triển của thời đại mới.
- Điều quan trọng của đổi mới ở Việt Nam hiện nay là để đảm bảo giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng sự lãnh đạo của Đảng phải kiên trì, kiên định và phát triển nền tảng thị trường, lý luận cách mạng và khoa học.
2. Những nội dung của công cuộc đổi mới
* Đổi mới tư duy trong sự gắn liền với hoạt động thực tiễn là một trong những chủ trương lớn hiện nay của Đảng ta. Chỉ có đổi mới tư duy lý luận, gắn lý luận với thực tiễn thì mới có thể nhận thức được các quy luật khách quan và cách mạng đúng đắn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
- Đại hội IX (tháng 4 - 2001) là đại hội mở đầu thế kỷ XXI ở Việt Nam đã nhìn lại một cách tổng quát quá trình cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX và định ra chiến lược phát triển đất nước trong hai tập niên đầu của thế kỷ XXI với phương hướng tổng quát là "Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ tô quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa". Đại hội xác định mục tiêu chung của cách mạng nước ta hiện nay là: "Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh".
- Đại hội IX đã khẳng định phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ ghĩa là một mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của cả nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển".
- Hội nghị trung ương 5 khoá IX (tháng 2 - 2002) đã ra một số nghị quyết sau: Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn thời kỳ 2001 - 2010. Phát triển kinh tế tư nhân là chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công tác tư tưởng, lý luận phải góp phần giải quyết những vẫn nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng
- Hội nghị trung ương 7 khoá IX (tháng 1 - 2003) khẳng định vai trò động lực chủ yếu của đại đoàn kết.
- Hội nghị trung ương 9 khoá IX (tháng 1 - 2004) lại nhấn mạnh vấn đề tạo bước tiến rõ rệt về chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển văn hoá, xã hội nh đồng bộ hơn với tăng trưởng kinh tế, tạo sự chuyển biến toàn diện và sâu sắc trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng
- Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển đường lối đổi mới của Đảng ta có thể rút ra một số kết luận là:
+ Đường lối đổi mới không phải tự nhiên mà có mà phải tìm tòi trong một quá trình, quá trình đó phải được thử nghiệm, đổi mới từng bước từ thấp đến cao, từ từng bộ phận đến toàn diện.
+ Trong quá trình đổi mớ, ý kiến, cách làm sáng tạo của nhân dân các địa phương là cực kỳ quan trọng. Biết lắng nghe, chắt lọc, tổng kết, khái quát thì sẽ có những quyết sách đúng, chủ trương phù hợp,nhất là vào những thời điểm khó khăn hoặc có tính bước ngoặt.
+ Đổi mới là đấu tranh giữa căn cứ và cái mới nhiều khi diễn ra ngay trong mỗi con người trong từng tổ chức. Thành công của Đảng ta là ở chỗ đã kiên quyết đổi mới, dám nhìn thẳng vào sự thật, dám thoả thuận sai lầm. Đảng xác định đổi mới phải kiên quyết nhưng phải làm từng bước vững chắc, thận trọng, có nguyên tắc, không xa rời mục tiêu.
+ Đường lối đổi mới được hình thành trên cơ sở độc lập tự chủ, sáng tạo, xuất phát từ thực tế Việt Nam, đồng thời có tham khảo kinh nghiệm các nước khác một cách chọn lọc, hợp quy luật, thuận lòng người, rễ, nhanh chóng đi vào cuộc sống.
* Nhìn lại 20 năm đổi mới là cả một chặng đường ta có thể rút ra một số bài học sau:
- Quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình hức và cách làm phù hợp.
- Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn nhạy bén với cái mới.
- Phát huy cao độ nội lực, đồng thời khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
* Đổi mới là động lực, ổn định là điều kiện tiền đề phát triển nhanh và bền vững là mục đích để đưa đất nước phát triển mạnh mẽ và vững chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì: "Phương hướng chung" đẩy mạnh công cuộc đổi mới ở nước ta trong thời gian tới là "Nắm vững thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy lùi nguy cơ, huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước, tạo ra những động lực mới, những đột phá mới, từ tư duy đến tổ chức và hành độn

File đính kèm:

  • docT091.doc
Giáo án liên quan