Tiểu luận Quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và xã hội

MỤC LỤC

MỤC TRANG

Lời cảm ơn 1

Lời cam đoan 2

Mục lục 3

LỜI NÓI ĐẦU 5

1. Lí do chọn đề tài 5

2. Mục đích nghiên cứu 6

3. Nhiệm vụ nghiên cứu 6

4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu tham khảo 6

5. Kết cấu tiểu luận 6

NỘI DUNG

Chương 1:MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA

 TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI 7

1.1. Các khái niệm 7

1.2. Mối quan hệ biên chứng giữa tự nhiên và xã hội 7

1.2.1. Xã hội - bộ phận đặc thù của tự nhiên 7

1.2.2. Tự nhiên - Con người - Xã hội nằm trong 8

 một chỉnh thể thống nhất

1.2.3. Tự nhiên - nền tảng của xã hội 9

1.2.4. Tác động của xã hội đến tự nhiên 10

1.2.5. Những yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa 11

 tự nhiên và xã hội

1.2.6. Môi trường - vấn đề của chúng ta 13

Chương 2: VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY

 Ở VIỆT NAM 15

2.1. Khái quát về môi trường

 và các nguồn tài nguyên của Việt nam 15

2.1.1. Tài nguyên đất Việt Nam 16

2.1.2. Tài nguyên nước Việt Nam 16

2.1.3. Tài nguyên khoáng sản Việt Nam 16

2.1.4. Môi trường và tài nguyên biển Việt Nam 17

2.1.5. Tài nguyên rừng và đa dạng sinh học 17

2.1.6. Vấn đề môi trường ở Việt Nam 18

2.2. Nhìn ra thế giới - Những bài học 20

2.2.1. Vấn đề môi trường trên thế giới 20

2.2.2. Thế giới hành động - Lối thoát 22

2.3. Các giải pháp cho môi trường Việt nam trong giai đoạn hiện nay

 và chiến lược phát triển lâu dài 24

KẾT LUẬN 26

TÀI LIỆU THAM KHẢO 27

 

doc28 trang | Chia sẻ: tuananh27 | Lượt xem: 1213 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tiểu luận Quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và xã hội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c nhau để khai thác giới tự nhiên, sẽ có những mục đích tiến hành sản xuất khác nhau. Khi công cụ thay đổi, mục đích sản xuất của mỗi chế độ sản xuất thay đổi thì tính chất của mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên cũng thay đổi theo.
 Ngày nay, khi có khoa học và kĩ thuật phát triển song với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa thì con người coi tự nhiên không chỉ là môi trường sống mà còn là đối tượng chiếm đoạt nhằm mục đích lợi nhuận. Khủng hoảng môi trường đã xảy ra ở nhiều nơi và đang đe dọa sự sống của nhân loại. Để tồn tại và phát triển con người phải chung sống hòa bình với thiên nhiên, thay đổi cách đối xử với tự nhiên mà quan trọng nhất là phải xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa - nguồn gốc sâu xa của việc phá hoại tự nhiên nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Nhiệm vụ này là nhiệm vụ của tất cả mọi người.
 Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào trình độ nhận thức và vận dụng các quy luật trong hoạt động thực tiễn. Mối quan hệ giữa tự nhiên và con người được thể hiện thông qua hoạt động của con người. Song con người hành động theo suy nghĩ do đó mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào trình độ nhận thức, trước hết là nhận thức các quy luật và việc vận dụng nó trong các hoạt động thực tiễn.
 Một nhận thức tốt đi kèm với những hành động theo quy luật thì con người đã tạo ra một thế giới hài hỏa, thuận lợi cho sự phát triển lâu dài của xã hội. Ngược lại, nếu làm trái quy luật, chỉ khai thác, chiếm đoạt những cái có sẵn trong giới tự nhiên thì sự nghèo nàn đi của giới tự nhiên và việc phá vỡ cân bằng hệ thống tự nhiên - xã hội là không tránh khỏi. Con người sẽ phải trả giá và chịu diệt vong.
 Việc nhận thức quy luật tự nhiên cần đi kèm việc nhận thức quy luật của xã hội và đồng thời vận dụng chúng trong thực tiễn.
 Thời đại ngày nay khoa học kĩ thuật phát triển, nhận thức đã được nang lên nhiều vấn đề còn lại là phải hành động cho đúng.
 Để tuân theo các quy luật tự nhiên thì việc xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường duy nhất.
1.2.6. Môi trường - vấn đề của chúng ta:
 Nằm trong mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội, môi trường và ảnh hưởng của nó đến sự tồn tại và phát triển của xã hội có lẽ là vấn đề quen thuộc nhất, nó thường xuyên được nhắc đến quanh ta.
 Môi trường là gì?
 Môi trường là toàn bộ những điều kiện mà trong đó con người sinh sống. Khái niệm này bao hàm cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Ở đây chúng ta sẽ chỉ chủ yếu xét đến môi trường tự nhiên.
 Môi trường tự nhiên được sử dụng với nhiều tên gọi khác nhau như môi trường sinh thái, môi trường sinh quyển. Môi trường sinh thái là điều kiện thường xuyên và tất yếu đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội.
 Như vậy trong mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội thì môi trường sinh thái đại diện cho bộ phận còn lại của tự nhiên bên cạnh bộ phận đặc thù của tự nhiên là xã hội.
 Vai trò của môi trường sinh thái đối với xã hội trong quá trình lịch sử ở những giai đoạn khác nhau cũng được thể hiện một cách khác nhau.
 Khi xã hội còn ở trình độ mông muội - khi con người chủ yếu chỉ biết săn bắt hái lượm những sản phẩm có sẵn trong tự nhiên thì hầu như con người hoàn toàn bị giới tự nhiên chi phối, thống trị. Cuộc sống xã hội hoàn toàn phụ thuộc môi trường tự nhiên.
 Khi con người văn minh hơn - nhất là khi khoa học kĩ thuật phát triển thì con người đã từng bước chế ngự được tự nhiên. Con người đã từng bước chế ngự , khai thác tự nhiên phục vụ cho nhu cầu của mình. Nhiều ngành nghề ra đời từ những điều kiện tự nhiên như nông nghiệp, lâm nghiệp, khai thác khoáng sản, đồng thời có những ngành ít phụ thuộc tự nhiên hơn cũng ra đời như điện tử, phần mềm (mới ra đời trong thời gian gần đây).
 Tuy nhiên cho đến nay xã hội vẫn phụ thuộc môi trường tự nhiên rất nhiều, nó có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây khó khăn cho sản xuất, do đó ảnh hưởng đến năng suất lao động, tốc độ phát triển của xã hội. 
 Sự bùng nổ dân số: 
 Khi nói đến vấn đề môi trường, tự nhiên và xã hội có một điểm ta không thể không đề cập, đó là sự bùng nổ dân số. 
 Mỗi cá thể người đều có những nhu cầu của riêng nó, nó cần tiêu thụ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, và gây ra các ảnh hưởng nhất định đến môi trường. Khi dân số phát triển ngày càng cao thì như cầu với tự nhiên càng lớn; những nhu cầu thiết yếu như ăn mặc, thực phẩm, thuốc men, nước sạch ngày càng thiếu thốn. Đồng thời nhiều vấn đề môi trường cũng nảy sinh như ô nhiễm nguồn nước, rác thải đặc biệt là việc tăng cường khai thác các nguồn đến cạn kiệt các nguồn tài nguyên nhằm đáp ứng các nhu cầu của con người. Áp lực lên môi trường ngày càng lớn và thực sự khả năng chịu đựng của môi trường là có hạn.
 Sự bùng nổ dân số thực tế là sự tăng lên rất nhanh của số lượng cá thể của quần thẻ người là một ví dụ cho sự phát triển vốn có ở tất cả các loài. Một quy luật kèm theo là: Khi số lượng cá thể của quần thể vượt quá khả năng chịu đựng của môi trường thì sự chết hàng loạt sẽ xảy ra nhưng thường là từng vùng chứ không phải là quy mô toàn cầu (I.M. Barrett and oth, 1986) 
 Nếu điều này xảy ra với loài người thì quả là tai họa. Mà những cách ứng xử sai của con người với tự nhiên hiện nay đang làm giảm đi sức chịu đựng của tự nhiên. Do đó chúng ta cần giải quyết tốt vấn đề môi trường va cư xử đúng với tự nhiên.
Chương 2.
VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
2.1. Khái quát về môi trường và các nguồn tài nguyên của Việt Nam: 
Tài nguyên thiên nhiên (TNTN) là toàn bộ giá trị vật chất sẵn có trong tự nhiên (nguyên liệu, vật liệu do tự nhiên tạo ra mà loài người có thể khai thác và sử dụng trong sản xuất và đời sống), là những điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của xã hội loài người. Tất cả những dạng vật chất khi chưa được hiểu biết, khai thác, sử dụng thì chưa được gọi là TNTN mà chỉ là điều kiện tự nhiên hay môi trường tự nhiên, cho nên TNTN mang tính chất xã hội, được "xã hội hoá". Như thế, nguồn TNTN luôn được mở rộng với sự phát triển của xã hội. TNTN có thể thu được từ môi trường tự nhiên, được sử dụng trực tiếp (như không khí để thở, các loài thực vật mọc tự nhiên...) hay gián tiếp thông qua các quá trình khai thác và chế biến (như các loại khoáng sản, cây lấy gỗ, đất đai...) để sản xuất ra những vật phẩm nhằm thoả mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của xã hội loài người. Mac coi việc thường xuyên thực hiện sự trao đổi vật chất giữa con người và tự nhiên là một quy luật điều tiết nền sản xuất xã hội, không có sự trao đổi đó thì cũng không thể có bản thân sự sống của con người. Hằng năm, con người lấy ra từ môi trường tự nhiên khoảng 35 - 40 tỉ tấn nguyên vật liệu. Các dạng TNTN chủ yếu bao gồm: tập hợp các nguồn năng lượng (năng lượng Mặt Trời, năng lượng gió, năng lượng thuỷ triều và năng lượng của các con sông, nhiệt trong lòng đất), không khí, nước, đất đai, khoáng sản, nguồn thế giới sinh vật (động vật, thực vật), vv. TNTN là tư liệu sản xuất bao quát nhất, là điều kiện không thể thiếu được của hoạt động sản xuất của xã hội. Thành phần của chúng bao gồm các nguồn TNTN có thể phục hồi được và các nguồn TNTN không thể phục hồi được. Có những TNTN có thể coi như vô tận, nhưng có những TNTN sẽ bị cạn kiệt. Trong số TNTN cạn kiệt, nhưng trong khi sử dụng nó có thể phục hồi (vd. sinh vật khi chưa bị tuyệt chủng) và những tài nguyên không thể phục hồi như than đá, dầu khí, vv. TNTN được phân chia thành rất nhiều loại khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm, tính chất và mục đích sử dụng của chúng. 
2.1.1. Tài nguyên đất Việt Nam:
 Quỹ đất của việt Nam có tổng diện tích hơn 33 triệu ha, tổng diện tích đất bình quân đầu người là 0,6 ha (đứng thứ 159 trên thế giới).
 Tổng số có hơn 16 triệu ha đất feralit, 3 triệu ha đất phù sa, đất mùn vàng đỏ hơn 3 triệu ha, đất xám bạc màu hơn 3 triệu ha... Tổng tiềm năng dự trữ quỹ đất nông nghiệp của Việt Nam là 10 - 11 triệu ha, trong đó gần 7 triệu ha được sử dụng vào nông nghiệp, 3 trên 4 trong số đó là trồng cây hàng năm.
 Mặn hóa, chua phèn hóa, bạc màu hóa, cát lấn , đất trũng úng nước, đất dễ bị thoái hóa, đất khó phục hồi là những vấn đề cần phải lưu ý.
2.1.2. Tài nguyên nước Việt Nam:
 Việt Nam có khoảng 2345 con sông (dài từ 10 km trở lên).
 Tổng dòng chảy của hệ thống sông Cửu long là 520 km3 /năm, của sông Hồng và sông Thái bình 120 km3/năm.
 Nước ngầm có thể khai thác khoảng 2,7 triệu km3/ngày.
 Đến năm 2000 lượng nước lấy đi cho tiêu dùng ở Việt nam tổng số khoảng 90 đến 100 km3 (xấp xỉ 30% lượng nước sản sinh ra trong lãnh thổ.
2.1.3. Tài nguyên khoáng sản Việt Nam:
 Nước ta nằm giữa hai vành đai tạo khoáng lớn của thế giới là Thái Bình Dương và Địa Trung Hải.
 Việt nam có hơn 3500 mỏ gồm 80 loại khoáng sản. Mới chỉ có 270 mỏ được khai thác gồm 32 loại khoáng sản.
 Khoáng sản chủ yếu: Than trữ lượng 3 đến 3,5 tỷ tấn; dầu mỏ trữ lượng Vịnh Bắc bộ là 500 triệu tấn, Nam Côn sơn 400 triệu tấn, Cửu long 300 triệu tấn, Vịnh Thái lan 300 triệu tấn; quặng sắt trữ lượng 700 triệu tấn; khí đốt thiên nhiên có trữ lượng lớn.
 Tài nguyên khoáng vật của Việt nam được đánh giá là to lớn, đủ cơ sở cho công nghiệp hóa.
2.1.4. Môi trường và tài nguyên biển Việt Nam:
 Việt Nam có vùng biển rộng trên 1 triệu km2 có nhiều tiềm năng về kinh tế và có độ đa dạng sinh học cao.
 Việt Nam có trên 100 loài cá có sản lượng cao, còn có nhiều hải sản quý như: cua, mực, sò huyết, trai, hàu, hải sâm, bào ngư, rùa biển, đồi mồi, ngọc trai. Ven bờ có sò, ngao , điệp, hàu, phi, don với sản lượng hàng chục vạn tấn một năm.
 Biển Việt Nam nằm trong một trong 5 ổ bão của hành tinh. Hơn 100 năm gần đây có 493 cơn bão, trung bình 4,7 cơn một năm.
2.1.5. Tài nguyên rừng và đa dạng sinh học:
 Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên rừng lớn và có giá trị. Nhiều người dân sống phụ thuộc vào rừng: Việt Nam có từ 7 đến 8 triệu dân sống ở rừng, 18 triệu dân có cuộc sống gắn với rừng.
 Rừng cho vật liệu xây dựng, năng lượng, dược liệu, gien động vật hoang dã. Rừng ngập măn là cái nôi của tôm cá biển, bảo tồn sinh học, chống sói mòn đất, điều hòa khí hậu, tăng nước ngầm, chống lũ lụt, xâm thực. Thảm thực vật phong phú của rừng Việt Nam đã tạo cho

File đính kèm:

  • docPhùng Thế Bằng.doc
Giáo án liên quan