Tiểu luận Quan điểm của Mác - Ănghen về vật chất
Tổng kết lại ta thấy được rằng từ lúc mới xuất hiện, phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩ duy tâm. Phạm trù vật chất có quá trình phát triển gắn liền với con người. Quan niệm về vật chất ở thời kỳ cận đại và cổ đại Tây âu và trong triết học Mác - Lênin là rất khác nhau. Ở thời kỳ cận đại Tây Âu đặc biệt là ở thế kỷ 17- 18 khoa học châu Âu phát triển khá mạnh. Do đó chủ nghĩa duy vật nói chung và phạm trù vật chất nói riêng đã có những bước phát triển mới chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng. Theo quan niệm của Lênin thì vật chất là một phạm trù rộng lớn, do đó chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong quan hệ với ý thức. Đó chính là phạm trù vận động không gian và thời gian. Như vậy ta có thể thấy được rằng vật chất là một phạm trù tồn tại từ rất lâu và luôn luôn phát triển với yếu tố con người.
an điểm siêu hành máy móc trong nhận thức khoa học cho rằng giới tự nhiên là có tận cùng về cấu trúc, rằng giới hạn cuối cùng bất biến của giới tự nhiên là nguyên tử hoặc khối lượng. Từ đó Lênin kết luận "điện tử cũng vô cùng vô tận như nguyên tử, tự nhiên là vô tận". Đồng thời Lênin chỉ rõ ràng sự thay thế một số khái niệm này bằng một số khái niệm khác trong nhận thức về thế giới chỉ chứng tỏ khoa học, sự phản ánh hiện thực khách quan cứ hoàn thiện mãi lên, chính tỏ sự hiểu biết của con người ngày càng sâu sắc, theo nghĩa ấy mà nói thì vật lý họcn lúc đó đang trải qua bước khủng hoảng trưởng thành và nguyên nhân của sự khủng hoảng đó nằm ngay trong bước nhảy vọt của nhận thức con người khi chuyển từ thế giới vĩ mô sang thế giới vi mô. Trên cơ sở phân tích ấy Lênin đưa ra định nghĩa về phạm trù vật chất, một định nghĩa mà cho tới nay các khoa học hiện đại vẫn thừa nhận. 1. Định nghĩa về vật chất của Lênin. Theo Lênin vật chất là một phạm trù rộng đến cùng cực, rộng nhất mà cho đến nay thực ra nhận thức luận vẫn chưa vượt quá quá được. Khi định nghĩa phạm trù này không thể quy nó về vật thể hoặc một thuộc tính cụ thể nào đó, cũng không thể quy về phạm trù cụ thể rộng hơn vì đến nay chưa có phạm trù nào rộng hơn phạm trù vật chất. Do vậy chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong quan hệ với ý thức, phạm trù đối lập với nó và trong quan hệ ấy, vật chất là tính thứ nhất ý thức là tính thứ hai. Bằng phương pháp như vậy định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin được diễn đạt như sau: "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại chụp lại, phản ánh và tồn tại khong lệ thuộc vào cảm giác". ở định nghĩa trên Lênin phân biệt hai vấn đề quan trọng: Trước hết cần phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học với các quan niệm của khoa học tự nhiên về cấu tạo và những thuộc tính cụ thể của đối tượng các dạng vật chất khác nhau. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học nó chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận không sinh ra, không mất đi, còn các đối tượng các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn nó sinh ra và mất đi để chuyển hoá thành cái khác. Vì vậy, không thể đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ thể của vật chát như các nhà duy vật trọng lịch sử cổ đại, cận đại đã làm. Thứ hai là trong nhận thức luận, khi vật chất đối lập với ý thức, cái quan trọng để nhận biết vật chất chính là những thuộc tính khách quan khách quan theo Lênin là "cái đang tồn tại độc lập với loài người với cảm giá của con người". Trong đời sống xã hội "vật chất là cái tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội của con người". Về mặt nhận thức luận thì khái niệm vật chất không có gì khác hơn". Thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức con người và được ý thức con người phản ánh". Như vậy định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau đây: - Vất chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người nhận đã nhận thức được hay chưa nhận thức được. - Vật chất là cái gây nên cảm giác con của con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác động lên giác quan của con người. -Cảm giác, tư duy ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất. Với những nội dung cơ bản trên phạm trù vật chất trong định nghĩa của Lênin có nhiều ý nghĩa to lớn. Khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác "tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác". Lênin đã thừa nhận rằng trong nhận thức luận, vật chất là tính thứ nhất, là nguồn gốc khách quan của cảm giác ý thức. Và khi khẳng định vật chất là cái mà chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh. Lênin muốn nhấn mạnh rằng bằng những hương thức nhận thức khác nhau con người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Như vậy, định nghĩa vật chất của Lênin đã bác bỏ thuyết không thể biết, đã khắc phục đã khắc phục được những khiếm khuyết trong các quan điểm siêu hình máy móc về vật chất. Đồng thời định nghĩa vật chất của Lênin còn có ý nghĩa định hướng đối với khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức mới của vật thể trong thế giới. Khi nhận thức được hiện tượng đời sống xã hội, định nghĩa vật chất của Lênin cho phép xác định cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội từ đó giúp các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải thích những nguyên nhân cuối cùng của biến cố xã hoịo, những nguyên nhân thuộc về sự vận động của phương thức sản xuất trên cơ sở ấy người ta có thể tìm ra các phương án tối ưu để thúc đẩy xã hội phát triển. 2. Vật chất và vận dụng Trong triết học bàn về phạm trù vật chất luôn gắn liền với việc phải bàn về tới các phạm trù liên quan tới sự tồn tại của nó. Đó là phạm trù vận động không gian và thời gian. Đó là phạm trù vận động không gian và thời gian. Những phạm trù trên xuất hiện sớm trong lịch sử triết học. Cùng với thời gian, nội dung của các phạm trù trên đã được làm phong phú hơn, sâu sắc hơn nhờ sự phát triển của các khoa học cụ thể. Khác với khoa học chuyên biệt, triết học không nghiên cứu những biểu hiện cụ thể của các phương thức tồn tại của vật chất mà chỉ làm sáng tỏ một số đặc trưng phổ quát nhất của cuộc vận động của vật chất trong không gian và thời gian. Trước hết ta cần xem khái niệm vận động là gì. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động không chỉ là sự thay đổi vị trí trong không gian (hình thức vận động thấp, giản đơn của vật chất) mà theo định nghĩa chung "vận động là mọi sự biến đổi nói chung. Ph.Anghen viết: "vận động hiểu theo nghĩa chung nhất() bao gồm tấ cả mọi sự thay đổi (theo) và quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy"1. Khi định nghĩa vận động là sự biến đổi nói chung thì vận động là "thuộc tính cố hữu của vật chất" là phương thức tồn tại của vật chất"1, 2 C.Mác và Angen: Toàn tập NXB Chính trị quốc gia - Hà Nội . Điều này có nghĩa là vật chất tồn tại bằng cách vận động. Trong vận động và thông qua vận động mà các dạng vật chất biểu hiện bộc lộ sự tồn tại của mình chỉ rõ mình là cái gì. Không thể có vật chất mà không có vận động. Một khi chúng ta nhận thức được những hình thức vận động của vật chất thì chúng ta nhận thức được bản thân vật chất. Với tính cách là thuộc tính cố hữu của vật chất, theo quan điểm của triết học Mác Lênin vận động là sự tự thân vận động của vật chất được tạo nên từ sự tác động lẫn nhau của các thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất. Quan điểm này đối lập với quan điểm duy tâm hoạc siêu hình về vận động. Những người theo quan điểm duy tâm hoặc siêu hình không đi tìm nguồn gốc của vận động ở bên trong bản thân của sự vật, mà đi tìm nguồn gốc ở ngoài sự vật. Quan điểm sự tự thân vận động của vật chất đã được chứng minh bởi những thành tựu của khoa học tự nhiên và ngày càng những phát kiến mới của khoa học tự nhiên hiện đại càng khẳng định quan điểm đó. Vật chất là vô hạn, vô tận không sinh ra không mất đi mà vận động là thuộc tính không thể tách rời vật chất nên bản thân sự vận động cũng không thể tách rời vật chất nên bản thân sự vận động cũng không thể bị mất đi hoặc sáng tạo ra. Kết luận này của triết học Mác Lênin đã được khẳng định bởi định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng theo định luật này, vận động, của vật chất được bảo toàn cả về mặt lượng và chất. Nếu một hình thức vận động nào đó của sự vật bị mất đi thì tất yếu sẽ nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế nó. Các hình thức vận động chuyển hoá lẫn nhau, còn vận động của vật chất thì vĩnh viễn, tồn tại cùng với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất. Thuyết tương đối và một số lý thuyết vật lý khác của Anhxtanh có bàn đến sự phụ thuộc lẫn nhau giữa khối lượng và năng lượng (E - mc2), hay quy luật tương đương giữa khối lượng biến thành năng lượng quy luật này là bằng chứng mới của khoa học tự nhiên về sự thống nhất của vật chất và vận động cũng như tính không thể sáng tạo ra và tiêu diệt được của vật chất và vận động. Bằng chứng ấy đã phủ định quan điểm của thuyết duy năng ra đời vào cuối thế kỷ XIX trong một bộ phận các nhà khoa học tự nhiên đã quy tất cả những hiện tượng thiên nhiên thành những biến thể khác nhau của năng lượng không có cơ sở vật chất. Đồng thời, bằng chứng ấy cũng phủ định quan điểm của một số nhà triết học duy tâm muốn tách rời vận động ra khỏi vật chất, thay thế khái niệm vật chất bằng khái niệm năng lượng. Dựa trên những thành tựu của khoa học thời đại mình. PhAnghen đã phân chia vận động thành 5 hình thức cơ bản. Từ đó cho đến nay khoa học hiện đại đã phát hiện ra những hình thức tổ chức vật chất mới, do đó đã phát hiện ra những hình thức mới của vận động. Chẳng hạn, khoa học đã chia hình thức vận động của vật chất thành ba nhóm tương ứng với ba lĩnh vực của thế giới vật chất là nhóm thế giới vô sinh, nhóm hữu sinh và xã hội. Đồng thời khoa học còn phát triển và bổ sung về các hình thức vận động cơ bản như vấn đề quan hệ giữa vận động cơ học và vật lý, giữa vật lý và hoá học, bản chất của vận động sinh học, mối quan hệ giữa quá trình vật chất và tinh thần trong đời sống xã hội v.v.. Tuy nhiên cách phân loại phổ biến, chung nhất cho đến nay vẫn là chia (hình thức) vận động thành năm hình thức cơ bản sau: 1. Vận động cơ học: sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian. 2. Vận đông vật lý: Vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các quá trình nhiệt điện 3. Vận động hoá học: vận động của các nguyên tử, các quá trình hoá hợp và phân giải các chất. 4. Vận động sinh học: Trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường. 5. Vận động xã hội: Sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của các hình thái kinh tế xã hội. Đối với sự phân loại vận động của vật chất thành 5 hình thức xác định như trên, cần chú ý nguyên tắc quan hệ giữa chúng là: Các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất. Từ vận động cơ học đến vận động xã hội khác nhau về trình độ của sự vận động, những trình độ này tương ứng với trình độ của các kết cấu vật chất. Các hình thức vận đọng cao dựa trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hà
File đính kèm:
- T129.doc