Tiểu luận Quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ

Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn ở nước ta khẳng định "mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với cả ba mặt sở hữu, quản lý phân phối "[Đảng cộng sản Việt Nam văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9, nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội, 2001 trang 86 - 87].

Từ sự nhận thức về tồn tại khách quan của nhiều hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế qua đó có những chính sách kinh tế phù hợp khuyến khích sản xuất hàng hóa tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển. Bên cạnh đó phải biết khai thác thế mạnh của sản xuất hàng hóa và các thành phần kinh tế để giải phóng sức sản xuất, tăng năng suất lao động tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, tạo công ăn việc làm. Hơn thế nữa Nhà nước, phải có chính sách đúng đắn để quản lý các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, thấy được xu hướng phát triển, yếu điểm của từng thành phần để hạn chế ngăn chặn các tiêu cực trong xã hội.

 

doc16 trang | Chia sẻ: Thewendsq8 | Lượt xem: 3687 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và kiểm soát, tạo điều kiện và môi trường hoặc các đơn vị kinh tế tư bản tư nhân hình thành và phát triển những ngành, lĩnh vực có lợi cho quốc kế dân sinh và hướng dẫn theo con đường kinh tế tư bản Nhà nước.
- Tuy nhiên đây là thành phần kinh tế có tính tự phát rất cao. Đầu cơ buôn lậu trốn thuế, làm hàng giả là những hiện tượng thường xuyên hiện đòi hỏi phải tăng cường quản lý đối với thành phần kinh tế này.
- Văn kiện đại hội Đảng lần 9 có viết: khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong các ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách pháp lí để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phiếu cho người lao động liên doanh liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế Nhà nước, xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động (Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần 9, nhà xuất bản Chính trị.
e. Kinh tế tư bản Nhà nước: Là thành phần kinh tế bao gồm các hình thức liên doanh liên kết giữa kinh tế Nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh.
- Các thành phần kinh tế cơ bản tồn tại trên cơ sở 3 loại sở hữu. Ngoài ra còn có những hình thức tổ chức liên kết kinh tế hoạt động không thuộc thành phần kinh tế nào như hình thức kinh tế hỗn hợp nhiều loại sở hữu công ty xí nghiệp cổ phần, liên doanh liên kết hai bên nhiều bên giữa các thành phần kinh tế trong và ngoài nước.
- Sự chuyển hóa của các thành phần kinh tế trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội diễn ra dưới nhiều hình thức, phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
f. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Bao gồm các doanh nghiệp có thể 100% vốn nước ngoài (một thành viên hoặc nhiều thành viên) có thể liên kết, liên doanh với doanh nghiệp Nhà nước hoặc doanh nghiệp tư nhân của nước ta
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Trong 10 năm qua (1991 - 2000) các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển khá nhanh giá trị sản xuất tăng bình quân 22% một năm. Trong 5 năm (1996 - 2000) vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện khoảng 10 tỉ USD, chiếm 23% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, trên 22% kim ngạch xuất khẩu và đóng góp trên 10% GDP chung của cả nước.
Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định "tạo điều kiện để kinh tế có vốn đấu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu xây dựng kết cấu hạ tầng, kinh tế xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm cải thiện môi trường kinh tế và pháp lí để thu hút vốn đầu tư nước ngoài [Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần 9, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, trang 99].
2. Tính tất yếu khách quan phải phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta.
a. Do yêu cầu của việc phát triển lực lượng sản xuất và thực chất là chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
- Chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội một nước nông nghiệp lạc hậu, vốn là thuộc địa nửa phong kiến, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, còn mang nặng tính tự cung, tự cấp, chưa trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
- Chúng ta tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, làm thay đổi nhanh chóng diện mạo thế giới trong mọi lĩnh vực kinh tế xã hội - chính trị, làm cho xu hướng phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước trong cộng đồng thế giới ngày càng tăng lên.
- Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường là quá trình kinh tế khách quan. Nó bắt đầu khi kinh tế tự nhiên phát triển đến trình độ làm xuất hiện những tiền đề kinh tế hàng hóa. Sự xuất hiện của kinh tế hàng hóa cũng chính là sự xuất hiện tiền đề phủ định kinh tế tự nhiên và khẳng định kinh tế hàng hóa. Mỗi bước phát triển của kinh tế hàng hóa là một bước đẩy lùi kinh tế tự nhiên. Như vậy trong quá trình vận động và phát triển kinh tế hàng hóa đã phủ định dần kinh tế tự nhiên và khẳng định mình là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội độc lập. Nó phát triển dưới sự tác động mạnh mẽ của các tiêu đề sau. Phản ánh lao động xã hội, sự độc lập tương đối về kinh tế giữa mọi người, lưu thông hàng hóa và tiền tệ
b. Do sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế ở nước ta
- Hiện nay ở nước ta tồn tại nhiều trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại, thô sơ, nửa cơ khí và cơ khí. Vì vậy thiết lập quan hệ sở hữu với tự liệu sản xuất cũng phải đa dạng. ở Việt Nam hiện nay quan hệ nhiều hình thức quy mô sở hữu tư liệu sản xuất luôn là căn cứ cho việc phân định các thành phần kinh tế khác nhau. Trong nền kinh tế nước ta đang tồn tại 3 hình thức sở hữu cơ bản. Sở hữu Nhà nước, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp. Từ ba hình thức sở hữu cơ bản đó đã hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với những loại hình doanh nghiệp đa dạng và phong phú.
c. Nước ta có một lực lượng lao động dồi dào
+ Nước ta có một lượng lao động lớn (khoảng 40 triệu người) cần cù thông minh. Song số người chưa có việc làm còn nhiều, vừa gây lãng phí sức lao động, vừa gây những khó khăn lớn về kinh tế xã hội. Trong khi khả năng thu hút lao động của khu vực kinh tế Nhà nước không nhiều thì việc khai thác tận dụng tiềm năng kinh tế Nhà nước không nhiều thì việc khai thác tận dụng tiềm năng của các thành phần kinh tế khác là một trong những giải pháp quan trọng để tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động.
3. Thái độ của Nhà nước với thành phần kinh tế 
Cho đến hiện nay vấn đề này vẫn chưa có sự thống nhất về lí luận và hành động thực tiễn có 3 nhận ý kiến.
a. Nhà nước ta phải có chính sách, chế độ đối xử nhất quán với các thành phần kinh tế.
b. Toàn bộ hoạt động của Nhà nước phải dựa trên sự phân biệt đối xử với các thành phần kinh tế.
c. Thái độ đối xử của Nhà nước đối với thành phần kinh tế vừa phải nhất quán, vừa phải phân biệt vì: Nền kinh tế hàng hóa quá độ trong nó tồn tại những kiểu sản xuất không cùng bản chất vừa thống nhất và vừa mâu thuẫn với nhau.
- Tính thống nhất
+ Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường do đó các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân thống nhất. Sự phát triển của mỗi thành phần kinh tế góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế.
+ Các thành phần kinh tế tuy có bản chất về mặt sản xuất khác nhau nhưng hoạt động sản xuất kinh doanh trong một môi trường chung cũng chịu sự tác động các nhân tố các quy luật chung của thị trường.
+ Các thành phần kinh tế tác động lẫn nhau cả tích cực và tiêu cực sự biến đổi của thành phần kinh tế này sẽ ảnh hưởng đến sự biến đổi của thành phần kinh tế khác. Trong nền kinh tế quốc dân thống nhất do Nhà nước hướng dẫn điều tiết các chủ thể sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế vừa hợp tác với nhau, bổ sung cho nhau, đều bình đẳng trước pháp luật.
- Tính mâu thuẫn
+ Mỗi thành phần kinh tế có đặc điểm riêng vì vậy mỗi thành phần kinh tế ngoài những qui luật kinh tế chung còn có quy luật kinh tế đặc thù chi phối hoạt động các thành phần.
+ Mỗi thành phần kinh tế mang bản chất, kinh tế khác nhau có các lợi ích kinh tế khác nhau thậm chí đối lập nhau. Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế làm cho cạnh tranh trở thành tất yếu cạnh tranh là động lực quan trọng thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất. Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế là mâu thuẫn một bên là kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản Nhà nước, với một bên là tính tự phát tư sản,tiểu tư sản của kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể giải quyết mâu thuẫn này dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất ngày càng chiếm ưu thế, là nhân tố căn bản của thời kỳ quá độ.
+ Việc giải quyết mâu thuẫn này như thế nào là việc không đơn giản không thể giải quyết bằng ý chí chủ quan, bằng bạo lực mà phải tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển mạnh mẽ hướng các thành phần kinh tế tư nhân đi vào con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước.
- Cần phải phân biệt đối xử với các thành phần kinh tế vì từ đặc điểm lịch sử sự hình thành bản chất vốn có mà mỗi thành phần kinh tế có vi trí, vai trò, chức nắng, tiềm năng, xu hướng phát triển khác nhau. Chính sự khác nhau đó là cơ sở để phân biệt đối xử các thành phần kinh tế, nhằm phát huy tác dụng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của chúng đối với sự phát triển của xã hội và chỉ có đường lối, chính sách phân biệt như vậy mới có chính sách phát triển thúc đẩy sự phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa cần nhấn mạnh không chỉ phân biệt các thành phần kinh tế mà nội dung của từng thành phần kinh tế càng phải phân biệt.
4. Biện pháp để phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam
a. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo định hướng xã hội chủ nghĩa
- Phát triển kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa với 2 công cụ quan trọng kinh tế Nhà nước giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế và chức năng điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
Trong 5 năm tới, cơ bản hoàn thành việc sắp xếp củng cố điều chỉnh cơ cấu, nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp Nhà nước hiện có, đồng thời phát triển thêm doanh nghiệp mà Nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc cổ phần chi phối ở một số ngành, lĩnh vực then chốt địa bàn quan trọng. Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu với các doanh nghiệp Nhà nước không cần nắm 100%. Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả.
- Thực hiện nhiều hình thức phân phối lấy phân phối theo kết quả lao động là chủ yếu.
- Hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hóa nhằm chuyển quan hệ trao đổi có tính hiện vật sang quan hệ hàng hóa - tiền tệ. Cả về vị trí lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy không thể có được nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần nếu như không có đơn vị sản xuất hàng hóa
+ Thừa nhận thành phần kinh tế 

File đính kèm:

  • docT102.doc