Tiểu luận Phép biện chứng về mối hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế

Toàn cầu hoá là một xu hướng tất yếu của lịch sử nhân loại. Cách đây hơn 150 năm, Cac Mac đã dự báo xu hướng này và ngày nay đã trở thành hiện thực. Theo ông, xu hướng toàn cầu hoá, mà trước hết là toàn cầu hoá kinh tế, bắt nguồn từ quá trình xã hội hoá lao động, xã hội hoá sản xuất và cùng với nó là việc mở rộng nền sản xuất hàng hoá. Chính lí luận toàn cầu hoá của Mác là cơ sở cho việc ra đời của Hội đồng tương trợ kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, trong đó Việt Nam là một nước thành viên. Hiện nay, toàn cầu hoá đang do các nước tư bản phát triển chi phôi và áp đặt. Tuy nhiên, đối với các nước chậm phát triển, đang phát triển và chuyển đổi nền kinh tế cũng tạo ra rất nhiều cơ hội thuận lợi trong việc thúc đẩy nền kinh tế của mỗi quốc gia và tất nhiên cũng gặp không ít những thách thức. Nếu quốc gia nào biết chủ động và có lộ trình hội nhập phù hợp với điều kiện cụ thể của mình sẽ vượt qua được những thách thức và tận dụng được những cơ hội để phát triển kinh tế đất nước, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khu vực và toàn cầu.

 

doc29 trang | Chia sẻ: Thewendsq8 | Lượt xem: 1402 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tiểu luận Phép biện chứng về mối hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o các nền kinh tế phụ thuộc, đan xen vào nhau. Tuy nhiên sự ràng buộc về lợi ích đó không có sự ràng buộc thuần tuý, vô điều kiện mà chính là vì phải chia sẻ lợi ích một cách hợp lí, nhằm mục đích cuối cùng là thu được nhiều hơn lợi ích cho đất nước mình, dân tộc mình, giữ được tính độc lập của nền kinh tế qua mối quan hệ ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau, một sự ràng buộc đa phương về lợi ích. Tất cả các nước tham gia vào quá trình tự do hoá thương mại đều trước hết vì lợi ích của mình, tuyệt nhiên không vì lợi ích của nước khác. Thế nhưng, những lợi ích ấy có được hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó cơ bản nhất là nội lực của nền kinh tế nước đó. Nước nào mạnh thì thu được nhiều lợi hơn. Toàn cầu hóa, thương mại hoá, vừa tạo ra sự hợp tác, phụ thuộc lẫn nhau, đồng thời cũng tạo nên sự cạnh tranh rất khốc liệt và rất không cân sức giữa các nền kinh tế. Sự cạnh tranh ấy khốc liệt đến nỗi có thể tạo nguy cơ gây mất ổn định về kinh tế và chính trị. Thậm chí còn có thể xảy ra xung đột giữa các nước với nhau. Chính vì lẽ đó, các nước không thể đứng nhìn toàn cầu hoá tác động tới mình, mà họ phải chủ động tham gia, đưa ra các quyết sách nhằm hội nhập xu hướng của thế giới, đồng thời làm sao thu lợi nhiều nhất mà vừa bảo vệ được nền kinh tế của mình. Trên thực tế đã có rất nhiều nước tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia vào các tổ chức kinh tế, tài chính, thương mại thế giới từ lâu nhưng vẫn trong tình trạng trì trệ, thậm chí mức độ bị phụ thuộc, mất tự do lại còn tăng hơn. Như vậy đủ thấy là mỗi nước sẽ không thể thực hiện được những mục đích đã định ra nếu không có ọt nền kinh tế của chính mình và đủ mạnh.
+ Chúng ta cần một nền kinh tế độc lập vững mạnh vì sự phát triển vững chắc và đảm bảo tính an toàn. Trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay ẩn chứa rất nhiều những yếu tố bất ổn, bất lường, bất công mà mức độ cũng như khả năng phòng tránh, khắc phục nó lại tuỳ thuộc rất nhiều ở trình độ phát triển của các nền kinh tế. Ai cũng rõ, toàn cầu hoá làm lây lan nhanh chóng những cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính, tiền tệ...làm trầm trọng thêm những vấn đề mang tính toàn cầu mà thế giới chưa tìm được lối thoát. Điều đó cũng có nghĩa là các nền kinh tế trở nên dễ biến động, bất ổn định hơn trước. Ví dụ: Trong những năm 1997 – 1998, Châu á gặp phải một cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ trầm trọng. Tuy nhiên, các nước này nhanh chóng phục hồi là nhờ lúc đó nền kinh tế Mỹ đang tăng trưởng khá. Hiện nay, từ sau ngày 11 – 9, nền kinh tế Mỹ đang ngập trong khó khăn thì người ta dự đoán rằng nền kinh tế ở một số nước Châu á khó bề vươn dậy được. Lý do, họ dựa quá nhiều và xuất khẩu mà không tranh thủ thời cơ để tiến hành cải cách cần thiết trong nước. Rồi đến Châu Phi đang phải gánh chịu một bài học đắt giá về việc chỉ biết sống dựa vào bên ngoài, phụ thuộc hẳn vào bên ngoài thì nền kinh tế trong nước sẽ không bao giờ cất mình lên nổi.
+Hiện nay tiêu chí sản phẩm hàng hoá cùng với các thiết chế, luật kinh tế đang trở thành luật chơi trong sân chơi toàn cầu. Muốn tham gia vào sân chơi này thì mỗi nước phải tự khẳng định mình, tìm cho mình một vị trí đứng. Muốn vậy điều quan trong bậc nhất là tạo ra thật nhiều sản phẩm mà ai cũng thấy cần và được chấp nhận. Như vậy, nước nào muốn thu được nhiều lợi nhuận thì phải nắm công cụ quan trọng là khoa học công nghệ hiện đại. Để thực hiện việc chuyển giao công nghệ, mỗi nước phải đạt tới một trình độ nhất định mới tiếp thu được công nghệ hiện đại. Thế nhưng một vấn đề quan trọng hơn, là phải phá vỡ bức rào cản do các công ty xuyên quốc gia đặt ra về tình trạng độc quyền các công nghệ hiện đại. Trong nhiều trường hợp, dựa vào ưu thế công nghệ hiện đại, họ tự cho mình quyền chi phối các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế, quyền đưa lợi ích kinh tế đi kèm với các điều kiện chính trị, áp đặt tư tưởng. Thậm chí, một số nước phát triển còn đưa ra quyền trừng phạt các nước dưới nhiều hình thức. Vì vậy, để khắc phục đến mức thấp nhất tình trạng bị rơi vào thế lệ thuộc, tất cả các nền kinh tế bằng mọi cách phải nâng cao nguồn nội lực của mình, nâng sức mạnh kinh tế tring nước, chống sự can thiệp quá sâu từ bên ngoài.
Trong bối cảnh quốc tế phức tạp và đầy mâu thuẫn như đã phân tích, đối với đất nước ta, việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ càng cần thiết hơn bởi nó là điều kiện quyết định giữ vững được định hướng phát triển mà chúng ta đã lựa chọn. Nói một cách khác, có xây dựng được một nền kinh tế độc lập tự chủ thì mới tạo được cơ sở kinh tế, cơ sở vật chất – kĩ thuật của chế độ chính trị độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ về kinh tế được đặt trong mối quan hệ biện chứng với độc lập tự chủ về các mặt khác sẽ tạo ra sự độc lập tự chủ và sức mạnh tổng hợp của một quốc gia. Tóm lại, chỉ có xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ, chúng ta mới có cơ sở và điều kiện để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
	3. Làm như thế nào đẻ đảm bảo được một nền kinh tế độc lập vững mạnh:
	Một là, phải có đường lối chính sách đúng đắn, chính sách độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ về đường lối, chính sách kinh tế có nghĩa là chúng ta tự lựa chọn định hướn phát triển, tự mình xác định chủ trương chính sách và mô hình kinh tế, không bị động và lệ thuộc bên ngoài, không chịu sức ép của bất cứ ai vì mục đích không lành mạnh của họ. đại hội IX của Đảng đã xác định đường lối kinh tế của nước ta: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo về và cải thiện mội trường; kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường quốc phòng – an ninh.
	Hai là, Chúng ta phải có một nền kinh tế đủ mạnh:
Toàn bộ giá trị sản xuất trong nước phải đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và có tích luỹ cần thiết từ nội bộ nền kinh tế quốc dân để tái sản xuất mở rộng trong nền kinh tế. 
Phải có thể chế kinh tế – xã hội bền vững, có cơ cấu kinh tế gắn bó với cơ cấu công nghệ, phát huy được lợi thế so sánh có đủ khả năng tạo ra sức cạnh tranh và hiệu quả, trả được nợ, tạo được tích luỹ, đáp ứng được nhu cầu của thị trường trong nước, chiếm lĩnh và giữ được thị trường ngoài nước; bảo đảm được nhịp độ tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững.
Phải có một năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ để làm chủ công nghệ nhập khẩu và sáng tạo công nghệ mới của Việt Nam, bảo đảm cho sự trao đổi bình đẳng về kinh tế và công nghệ với bên ngoài, nhất là trong điều kiện ngày nay, khi sức mạnh kinh tế ngày càng dựa vào thế mạnh và khả năng về khoa học, công nghệ. 
Phải luôn luôn giữ được sự ổn định kinh tế vĩ mô với hệ thống tài chính, tiền tệ lành mạnh, bảo đảm giữ được cán cân thương mại và cán cân thanh toán, có dự trự ngoại tệ cần thiết, có chiến lược vay và trả nợ hợp lý, không để bị động và lệ thuộc. 
Phải có một số yếu tố vật chất đảm bảo an toàn và điều kiện cơ bản cho phát triển. Trước hết là các yếu tố: an ninh lương thực, an toàn năng lượng, an toàn môi trường, kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội được xây dựng đồng bộ và tương đối có chất lượng. Đồng thời có một số ngành và cơ sở công nghiệp nặng, công nghiệp có tính chất nền tảng để tạo sức mạnh công nghiệp quốc gia, đặc biệt là nếu phải đương đầu với các tình huống gay cấn, phức tạp(như bị bao vây cấm vận, chiến tranh xâm lược...)
Muốn có thực lực kinh tế đủ mạnh thì phải nhất thiết phải đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, coi đây là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng toàn dân ta trong suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Có công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì mới tạo ra cơ sở vật chất, kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội, tạo ra thực lực của đất nước, nâng cao đời sống của nhân dân.
Chương V: Việt Nam sau 10 năm đổi mới
1.Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập:
	+) Năm 1993, chúng ta khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như IMF, WB, ADB. IMF, WB đã hỗ trợ chúng ta thông qua chương trình tín dụng trung hạn: Chương trình điều chỉnh cơ cấu (SAC) cuẩ WB và chương trình điều chỉnh cơ cấu mở rộng (ESAF) của IMF. Nội dung đàm phán với các tổ chức này gắn bó mật thiết với các điều kiện của tổ chức Thương Mại Quốc Tế (WTO). Trong quan hệ với các tổ chức này, chúng ta chỉ chấp nhận sự hỗ trợ tài chính nếu yêu cầu của hộ không trái với đường lối chính sách của chúng ta; có năm họ đưa ra điều kiện vi phạm chủ quyền lợi ích quốc gia nên ta không chấp nhận.
+) Ngày 25/7/1995, nước ta đã chính thức gia nhập ASEAN, đồng thời tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Từ ngày 01 tháng01 năm 1996, chúng ta bắt đầu thực hiện các cam kết và các nghĩa vụ trong Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) cuẩ AFTA. Theo quy định của CEPT, tới năm 2006 chúng ta có nghĩa vụ phải giảm thuế nhập khẩu xuống còn o – 5% ( trừ một số hàng nông sản nhạy cảm sẽ thực hiệ tới năm 2010). Tới năm 2010 sáu nước thành viên cũ của ASEAN sẽ thực hiện toàn bộ các mặt hàng có thuế suất bằng 0%, với Việt Nam là 2015.
+) Tháng 3 năm 1996, nước ta đã tham gia Diễn Đàn Hợp Tác á - Âu (ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập. Nội dung thảo luận chủ yếu tập trung vào thuận lợi hoá thương mại và đầu tư và hợp tác giữa các nhà doanh nghiệp á - Âu. Cam kết tự do hoá thương mại, đầu tư chưa được đặt ra.
+) Ngày 15 tháng 6 năm 1996, Việt Nam gửi đơn xin gia nhập Diễn Đàn Hợp Tác Kinh Tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC) lúc bấy giờ gồm 18 nước và lãnh thổ (ngày nay là 21) và tháng 11 năm 1998 đã được công nhận là thàng viên chính thức của tổ chức này. APEC quyết định hội nhập đầy đủ vào năm 2010 đối với các thành viên ph

File đính kèm:

  • docT056.doc