Tiểu luận Phân tích thực chất của cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ăngghen thực hiện – ý nghĩa của vấn đề đó

MỤC LỤC

Lời mở đầu 1

Nội dung

1. Vấn đề cơ bản của triết học 2

2. Tư tưởng triết học của Hêghen và Phoi ơbắc và nguồn gốc ra đời của Triết học Macxit 4

3. Thực chất cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ănghen thực hiện 9

4. Ý nghĩa 13

Kết luận 15

Tài liệu tham khảo 16

 

doc17 trang | Chia sẻ: Thewendsq8 | Lượt xem: 1700 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích thực chất của cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ăngghen thực hiện – ý nghĩa của vấn đề đó, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mối quan hệ khăng khít giữa tồn tại và tư duy.
Phoi ơbắc không chỉ chống lại chủ nghĩa duy tâm, mà với triết học nhân bản của mình ông còn đấu tranh chống những quan điểm duy vật tầm thường quy các hiện tượng tâm lý tinh thần về các quá trình lý hoá, không thấy sự khác nhau về chất giữa chúng, chẳng hạn như coi óc tiết ra tư tưởng cũng như gan tiết ra mật.
Mặt tích cực trong triết học nhân bản của Phoi ơbắc còn thể hiện ở chỗ ông đấu tranh chống các quan niệm tôn giáo chính thống của đạo Thiên chúa, đặc biệt quan niệm về Thượng đế. Trái với các quan niệm truyền thống của tôn giáo và thần học cho rằng Thượng đế tạo ra con người, ông khẳng định, chính con người sáng tạo ra Thượng đế. Khác với Hêghen nói đến sự tha hoá của ý niệm tuyệt đối, Phoi ơbắc nói đến sự tha hoá của bản chất con người vào Thượng đế. Ông lập luận rằng, bản chất tự nhiên của con người là muốn hướng tới cái chân, cái thiện nghĩa là hướng tới nhứng cái gì đẹp nhất trong một hình tượng đẹp nhất về con người, nhưng trong thực tế những cái đó con người không đạt được nên gửi gắm tất cả ước muốn của mình vào hình tượng Thượng đế. Từ đó Phoi ơbắc đã đi đến phủ nhận mọi thứ tôn giáo và thần học về một vị Thượng đế siêu nhiên, đứng ngoài, sáng tạo ra con người, chi phối cuộc sống con người.
Triết học của Phoi ơbắc cũng bộc lộ những hạn chế. Chẳng hạn, kho ông đòi hỏi triết học mới – triết học nhân bản, phải gắn liền với tự nhiên đồng thời đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa tự nhiên để xem xét mọi hiện tượng thuộc về con người và xã hội. Con người, theo quan niệm của Phoi ơbắc là con người trừu tượng, phi xã hội mang những thuộc tính sinh học bẩm sinh. Triết học nhân bản của Phoi ơbắc chứa đựng những yếu tố của chủ nghĩa duy tâm. Ông nói rằng, bản tính con người là tình yêu, tôn giáo cũng là một tình yêu. Do vậy, khi thay thế cho thứ tôn giáo tôn sùng một vị thượng đế siêu nhiên cần xây dựng một thứ tôn giáo mới phù hợp với tình yêu của con người. Ông cho rằng cần phải biến tình yêu thương giữa con người thành mối quan hệ xã hội khác, thành lý tưởng xã hội. Trong điều kiện của xã hội tư sản Đức bấy giờ, với sự phân chia và đối lập giai cấp thì chủ nghĩa nhân đạo của Phoi ơbắc về tình yêu thương giữa con người trở thành chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng, duy tâm.
Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, Phoi ơbắc đã không biết rút ra từ đó cái “hạt nhân hợp lý” mà đã vứt bỏ luôn cả phép biện chứng của Hêghen.
Mặc dù có nhưng hạn chế, triết học của Hêghen và Phoi ơbắc có ý nghĩa to tớn trong lịch sử triết học và trở thành một trong những nguồn gốc lý luận quan trọng của triết học Mác
b) Nguồn gốc ra đời của triết học Mác xít
Triết học Mác (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử) là bộ phận cấu thành và là cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác, đồng thời là chìa khoá để giải thích trên cơ sở khoa học quá trình phát triển của tư tưởng nhân loại.
Quê hương của chủ nghĩa Mác là nước Đức. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất ở Anh, Pháp, Đức và các nước tư bản chủ nghĩa khác đã chứng tỏ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ưu việt hớn hẳn phương thức sản xuất phong kiến. Song, cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, những mâu thuẫn giai cấp – xã hội vốn có của bản thân nó cũng nảy sinh và ngày càng bộc lộ gay gắt, trước hết là mâu thuẫn giữa hai giai cấp vô sản và tư sản. Mâu thuẫn này là biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mẫu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá và trình độ phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Trong thời kỳ này, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản phát triển mạnh mẽ. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở nhiều nơi đã trở thành cuộc khởi nghĩa với những yêu sách giai cấp rõ ràng. Khởi nghĩa của công nhân Liông (Pháp) năm 1831 và năm 1834, cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở Xilêdi (Đức) năm 1844, phong trào Hiến chương ở Anh vào cuối những năm 30 đầu những năm 40 của thế kỷ XIX đã thu hút sự chú ý của các đại biểu tiên tiến của các tầng lớp tri thức tư sản tiến bộ, trước hết là C.Mác và Ph.Ănghen tới vấn đề nguyên nhân, bản chất của các cuộc đấu tranh giai cấp – xã hội và những triển vọng của các cuộc đấu tranh giai cấp ấy. Rõ ràng những cuộc đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa tiên tiến ở châu Âu những năm 30-40 của thế kỷ XIX là nhân tố khách quan chứng tỏ rằng đã có những tiền đề xã hội- giai cấp và những điều kiện để xuất hiện chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; là chứng cứ để nói rằng nhu cầu xã hội đã chín muồi đề xuất hiện một thế giới quan triết học mới – triết học mácxít.
Những tư tưởng xã hội trực tiếp xuất hiện trước chủ nghĩa Mác và biểu hiện rõ ràng nhất và kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng pháp, triết học cổ điển Đức. Trong những học thuyết ấy chứa đựng những giá trị về mặt lịch sử. Đó là, lý luận giá trị lao động của Smith và Ricardo, là những dự đoán thiên tài của Xanh ximông và Phuriee về một số đặc điểm của xã hội xã hội chủ nghĩa tương lai và sự phê phán của các ông đối với xã hội tư bản. Đó là phép biện chứng duy tâm của Hêghen và kiến giải duy vật về vấn đề cơ bản của Triết học trong các tác phẩm của Phoiơbắc. Những học thuyết đó là những đỉnh cao của sự phát triển tư tưởng lý luận xã hội loài người trong thời kỳ trước Mác. Sự phát triển hơn nữa về kinh tế chính trị học, lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học và triết học chỉ có thể có được với sự ra đời của phép biện chứng duy vật. Song, rõ ràng những thành tựu đã đạt tới của nhân loại lại là những tiền đề lý luận tất yếu về mặt lịch sử và là nguồn gốc của chủ nghĩa Mác nói chung, của triết học mácxít nói riêng.
Vào giữa thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt tời những đỉnh cao trong khoa học tự nhiên. Các nhà khoa học tự nhiên như R.Maye (Đức), P.P Giulơ (Anh), E.Kh. Lenxơ (Nga), L.A.Cônđinh (Đan Mạch) đã xác định sự thật về chuyển hoá năng lượng. R.Maye và P.P Giulơ đã nên lên thành định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, đã chứng minh sự phát triển của vật chất là một quá trình vô tận của sự chuyển biến những hình thức vận động của chúng. Các nhà sinh vật học người Đức như Svan và Slâyđen đã đưa ra lý luận tế bào, chứng minh rằng các tế bào là cơ sở của kết cấu và sự phát triển của tất cả các cơ thể động vật và thực vật, và do vậy tìm ra bản chất sự phát triển của cơ thể động vật, thực vật đều là sự phát triển bằng sự hình thành tế bào. 
Nhà khoa học người Anh là Đácuyn cũng đã phát hiện là lý luận duy vật về nguồn gốc và sự phát triển của các loài thực vật và động vật. Chính định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, lý luận tế bào, học thuyết về sự xuất hiện và phát triển các loài là tiền đề về mặt khoa học tự nhiên của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa Mác ra đời trong bối cảnh ấy và nó là sản phẩm mang tính quy luật của khoa học và triết học mà nhân loại đã đạt tới, nó được hình thành như là kết quả của các phát hiện của Mác và Ăngghen về những quy luật chung nhất của sự phát triển thế giới. Chủ nghĩa Mác do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập là một học thuyết thống nhất, hoàn chỉnh, gồm ba bộ phận cấu thành: triết học mácxít, kinh tế chính trị học mácxít và chủ nghĩa xã hội khoa học.
3. Thực chất cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ăngghen thực hiện
Sự hình thành thế giới quan duy vật của Mác và Ăngghen cũng đồng thời là qúa trình nghiên cứu những cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng của các ông diễn ra trong nửa đầu của những năm 40 thế kỷ XIX dưới ảnh hưởng trực tiếp của phong trào công nhân và những phát minh về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, trong quá trình đấu tranh chống phép biện chứng duy tâm của Hêghen và phê phán chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoiơbắc.
Trong giai đoạn đầu, trước nửa năm sau của năm 1843, Mác và Ăngghen là những nhà biện chứng duy tâm. Hai ông tiếp nhận phép biện chứng của Hêghen, song có thái độ đối lập với hệ thống siêu hình của triết học Hêghen và các kết luận chính trị phản động xuất phát từ hệ thống triết học ấy. Quan điểm chính trị và xã hội của Mác và Ăngghen thời kỳ này là quan điểm dân chủ cách mạng. Song, ngay từ năm 1842, khi Mác còn làm biên tập viên Báo Rainơ tại Côlônhơ và khi Ăngghen đang nghiên cứu tình cảnh giai cấp công nhân Anh, các ông đã có những biểu hiện chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản.
 Đặc điểm nổi bật trong hoạt động của hai ông khi nghiên cứu các thành tựu của khoa học và triết học là nghiên cứu một cách có phê phán và sự sáng tạo của các ông là nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị – xã hội. Khi Mác làm biên tập viên Báo Rainơ, ông đã bày tỏ ý kiến của mình trên báo trí về vai trò và ý nghĩa của các lợi ích vật chất trong đời sống xã hội, những vấn đề kinh tế xã hội đặt ra ở tỉnh Rainơ, về vấn đề sở hữu đất, vấn đề đốn rừng, về thương nghiệp và về thuế quan bảo hộ... Nhưng khi sử dụng phép biện chứng duy tâm và học thuyết về nhà nước và pháp quyền của Hêghen, Mác đã rơi vào tình trạng khó xử, không giải đáp được các vấn đề của thực tiễn chính trị xã hội đặt ra. Lúc này, chính Mác đã cảm thấy rằng những lợi ích vật chất của con người trong đời sống xã hội dã đóng một vai trò quan trọng đặc biệt. Mác đã đi tới kết luận rằng, phải nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những vấn đề kinh tế chính trị và phải xem xét lại một cách có phê phán những quan điểm triết học và pháp quyền của Hêghen.
Trong thời kỳ công tác tại Báo Rainơ, trong quan điểm của Mác có cả quan điểm của chủ nghĩa xã hội không tưởng, song, vì chưa đủ những tri thức sâu sắc về những vấn đề đó, nên ông đã không thể bày tỏ quan điểm của mình về các học thuyết xã hội chủ nghĩa của những người tiền bối.
Sau khi rời ban biên tập Báo Rainơ, Mác hoàn toàn dành thời gian để giải quyết những vấn đề đã đặt ra cho ông trong thời kỳ công tác tại tờ báo. Ông đã biết một bài luận văn lớn dành cho việc phê phán triết học pháp quyền của Hêghen. Tháng 10-1843, ông sang Pari, cố gắng nghiên cứu các vấn đề kinh tế – chính trị học và lịch sử các phong 

File đính kèm:

  • docT024.doc
Giáo án liên quan