Tiểu luận Những mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay – Thực trạng và phương hướng giải quyết

Trải qua quá trình đấu tranh khó khăn và gian khổ, khi đất nước thống nhất, Đảng và nhà nước ta quyết định đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, Việt Nam xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chứ không phải nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Việc làm rõ bản chất, đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lý luận và thực tiễn.

Sự phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta tuy còn có nhiều khó khăn và thử thách nhưng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Bên cạnh đó thì vẫn còn tồn tại những hạn chế, mâu thuẫn cấp bách cần được giải quyết nhằm xây dựng một nền kinh tế ngày càng hoàn thiện hơn. Trong thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện các chính sách kinh tế – xã hội để giải quyết những mâu thuẫn đó nhằm tạo ra một nền kinh tế ngày càng phát triển và hoàn thiện. Thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đưa đất nước vững bước phát triển theo con đường đã chọn.

 

doc22 trang | Chia sẻ: Thewendsq8 | Lượt xem: 1612 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tiểu luận Những mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay – Thực trạng và phương hướng giải quyết, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đáng kể. Qua cải cách hành chính và xắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, lao động trong khu vực nhà nước giảm từ 14,7% năm 1991 xuống còn 9% năm 2000, khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể thu hút khoảng 90%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thu hút được 33 vạn lao động. Điều đó cho thấy việc phát triển đa dạng các thành phần kinh tế đã góp phần rất lớn vào việc giải quyết công ăn việc làm. Tuy nhiên từ năm 2001 đến nay tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực nhà nước có xu hướng tăng trở lại. 
 Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Đơn vị: %
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
Cả nước
6,44
6,25
6,01
5,78
A. Phân theo vùng
Đồng bằng sông Hồng
7,34
7,07
6,64
6,37
Đông Bắc
6,49
6,73
6,10
5,94
Tây Bắc
6,02
5,62
5,11
4,19
Bắc Trung Bộ
6,87
6,72
5,82
5,45
Duyên hảI Nam Trung Bộ
6,31
6,16
5,49
5,46
Tây Nguyên
5,16
5,55
4,92
4,39
Đông Nam Bộ
6,20
5,92
6,31
6,08
Đồng Bằng Sông Cửu Long
6,15
6,08
5,52
5,26
B. Một số thành phố lớn
Tp. Hà Nội
7,95
7,39
7,08
6,84
Tp. Đà Nẵng
5,95
5,54
5,30
5,16
Tp. Hồ Chí Minh
6,48
6,04
6,73
6,58
Nguồn: niên giám thống kê (tóm tắt) 2003, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2004, trang 13.
Bên cạnh một số kết quả đã đạt được trong vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động thì vẫn còn những hạn chế cần được giải quyết. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn còn cao. Cơ cấu và chất lượng chuyển dịch lao động còn chậm, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo thấp (20%), năng suất lao động không cao. Còn thiếu những chính sách chưa đủ mạnh để khuyến khích đầu tư, khai thác, huy động các nguồn lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm. Việc thực hiện mục tiêu quốc gia về giải quyết việc làm ở một số địa phương còn lúng túng; việc giải ngân quỹ quốc gia về hỗ trợ việc làm còn chậm, hiệu quả một số dự án tạo việc làm còn thấp. Đây là những tồn tại cần phải khắc phục để giải quyết triệt để vấn đề việc làm cho người lao động.
2.3 Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường với sự phân hoá giàu nghèo.
Nền kinh tế thị trường phát triển, tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội nhưng không vì vậy mà đời sống của nhân dân được nâng cao và ổn định. Trái lại cùng với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì cũng diễn ra sự phân hoá giàu nghèo, sự phân tầng xã hội theo mức sống ngày càng tăng.
Năm 1993, theo kết quả đIều tra giàu nghèo của 91732 hộ trên phạm vi cả nước, tính chung khoảng cách chênh lệch thu nhập giữa nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo là 6,2 lần. Các năm 1994, 1995, 1996, Tổng cục thống kê đã tiến hành điều tra hộ gia đình đa mục tiêu với cỡ mẫu 4,5 vạn hộ và năm 1999 đIều tra 2,5 vạn hộ đại diện cho cả nước, 7 vùng sinh thái, khu vực thành thị, nông thôn, thì chênh lệch thu nhập giữa nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo là 6,5 lần năm 1994, 7 lần năm 1995, 7,3 lần năm 1996 và 8,9 lần năm 1999. như vậy hệ số chênh lệch thu nhập giữa nhóm hộ giàu và hộ nghèo tăng dần qua các năm trên phạm vi cả nước cũng như trong từng vùng. 
Bảng so sánh nhóm thu nhập cao nhất và nhóm thu nhập thấp nhất, mỗi nhóm 20% số hộ điều tra
Đơn vị: lần
Chỉ tiêu
1994
1995
1996
1999
Toàn quốc
6,5
7,0
7,3
8,9
1. Chia theo khu vực:
- Thành thị
7,0
7,7
8,0
9,8
- Nông thôn
5,4
5,8
6,1
6,3
2. Chia theo vùng:
- Tây Bắc và Đông Bắc
5,2
5,7
6,1
6,8
- Đồng bằng sông Hồng
5,6
6,1
6,6
7,0
- Bắc Trung Bộ
5,2
5,7
5,9
6,9
- Duyên hảI Nam Trung Bộ
4,9
5,5
5,7
6,3
- Tây Nguyên
10,1
12,7
12,8
12,9
- Đông Nam Bộ
7,4
7,6
7,9
10,3
- Đồng bằng sông Cửu Long
6,1
6,4
6,4
7,9
Nguồn: Tổng cục thống kê: số liệu về sự chuyển biến xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2000.
Sự phân hoá giàu nghèo ngày càng dãn rộng sẽ lan sang các lĩnh vực khác như giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, nhà ở và các dịch vụ cơ bản khác Điều đó đưa đến hệ quả không mong muốn, làm xuất hiện những nhóm xã hội dễ bị tổn thương trong nền kinh tế thị trường, tác động đến tư tưởng, tâm lý, niềm tin về công bằng xã hội. Vì thế, cần tăng cường vai trò của nhà nước đối với phân phối thu nhập nhằm từng bước thực hiện mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.4 Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường với vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái 
Nền kinh tế ngày càng phát triển, đặc biệt là các ngành công nghiệp đã làm cho môi trường ngày càng ô nhiễm. 
Trong suốt những năm qua, con người đã thường xuyên tác động trực tiếp tới thiên nhiên và cải biến môi trường sống. Con người đã khai thác than đá, sắt, và các kim loại khác, nắn dòng sông, đào kênh, bạt núi, xây dựng các trạm thuỷ điện với các hồ chứa nước nhân tạo những hoạt động đó đã ảnh hưởng tới khí hậu, từ đó tác động mạnh tới sinh quyển. Trước đây, ở nước ta có 3/4 diện tích đất đai là rừng, nay chỉ còn 1/4 là rừng. Nhiều loại gỗ quý như gụ, lát hoa, giáng hương, sến, táu đã bị khai thác đến mức gần như cạn kiệt. 
Rừng bị triệt hạ nhiều làm cho lượng ôxi trong không khí và lượng chất hữu cơ sản sinh bị giảm sút rõ rệt. Lượng nước dự trữ do rừng giữ lại ngày càng ít dần, làm cho quá trình sa mạc hoá và thảo nguyên hoá càng tăng nhanh. Quá trình đô thị hoá nhanh làm cho diện tích đất trồng ngày càng bị thu hẹp. Sự phân phối nước ngọt cho người và cho vật nuôi, cây trồng cũng bị hạn chế. Tiến bộ khoa học kĩ thuật được ứng dụng tích cực vào sản xuất đã kéo theo sự nhiễm bẩn của tất cả các quyển. Các chất thải của nhà máy làm cho các hồ ao, sông ngòi, cửa biển, cảng và biển cả bị nhiễm bẩn ngày càng nhiều. Các tầu biển đã thải ra biển và đại dương nhiều chất thải độc hại, làm chết nhiều sinh vật nổi và những sinh vật khác ăn sinh vật nổi cũng chết theo
Những khí thải của các nhà máy khi vào trong khí quyển đã làm tăng lượng khí CO và CO2 trong không khí gây hiện tượng hiệu ứng nhà kính, gây thủng tầng ôzôn, làm cho trái đất nóng lên dẫn đến băng ở hai cực Trái Đất tan ra, vì vậy nước biển sẽ dâng lên và nhấn chìm đất liền.
Sự ô nhiễm bầu khí quyển làm cho trái đất ngày càng nóng lên dẫn đến sự thay đổi thời tiết, khí hậu ở Việt Nam cũng như ở các khu vực khác trên thế giới. Gần đây hiện tượng sóng thần đã gây thiệt hại nặng nề về người và của cho các nước ở khu vực Nam á và Đông Nam ở nước ta, tuy không nằm trong khu vực ảnh hưởng của sóng thần nhưng với thời tiết khô và nhiệt độ cao đã gây ra hàng loạt các vụ cháy rừng ở Sơn La và hạn hán ở Tây Nguyên, Ninh Thuận, Bình Thuận
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì nó đã kéo theo hàng loạt các nhân tố gây ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Đây là vấn đề quan trọng được đặt ra không chỉ ở Việt Nam mà cả trên toàn thế giới. Nó đòi hỏi cần phải được giải quyết triệt để nếu không môi trường bị phá huỷ là con người sẽ tự huỷ hoại môi trường sống của chính bản thân mình.
Sự phát triển của mỗi quốc gia chỉ có thể bền vững khi môi trường sống và thiên nhiên được bảo vệ tốt, duy trì được mối cân bằng sinh tháI, tránh bị ô nhiễm và biết cách khai thác, sử dụng, phục hồi một cách hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên.
III. Những giải pháp để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1. Những giải pháp chung để phát triển nền kinh tế thị trường
1.1 Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần 
Trước khi xây dựng kinh tế kế hoạch, xoá bỏ kinh tế thị trường, chúng ta thiết lập một cơ cấu sở hữu đơn giản với hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Vì vậy, khi chuyển sang kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường, cần phải đổi mới cơ cấu sở hữu cũ, bằng cách đa dạng hoá các hình thức sở hữu, điều đó sẽ đưa đến hình thành những chủ kinh tế độc lập, có lợi ích riêng, tức là khôi phục một trong những cơ sở của kinh tế hàng hoá.
Trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức sở hữu, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Lấy việc phát triển sức sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội, cải thiện đời sống nhân dân là mục tiêu quan trọng để khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Theo tinh thần đó tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, đều được khuyến khích phát triển.
Trong những năm tới cần phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Muốn vậy cần tập trung nguồn lực phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước trong những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế, sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp nhà nước, thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu đối với những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn. Xây dựng và củng cố một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Đẩy mạnh việc đổi mới kỹ thuật, công nghệ trong các doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện chế độ quản lý công ty đối với tất cả các doanh nghiệp kinh doanh có vốn của Nhà nước, doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh.
Phát triển kinh tế kinh tế tập thể dưới nhiều hình thức đa dạng. Trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Nhà nước cần giúp đỡ hợp tác xã về đào tạo cán bộ, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường. Thực hiện tốt việc chuyển đổi hợp tác xã theo Luật hợp tác xã.
Khuyến khích kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển ở cả thành thị và nông thôn. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển có hiệu quả. Khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân phát triển trong những ngành nghề sản xuất kinh doanh mà luật pháp không cấm. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế tư nhân trong và ngoài nước: tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hướng vào mục tiêu phát triển các sản phẩm xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh, gắn thu hút vốn với thu hút công nghệ hiện đại.
1.2 Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học – công nghệ; trên cơ sở đó đẩy mạnh phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là cơ sở c

File đính kèm:

  • docT077.Doc