Tiểu luận Những hạn chế và kiến nghị liên quan đến việc ban hành các văn bản pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước
Theo Hiến pháp năm 1992 đã có nhiều điểm thay đổi, tiến bộ phù hợp với công tác quản lý của các cơ quan quản lý Nhà nước. Song riêng vấn đề ban hành các văn bản pháp lý thì cong nhiều chỗ bất cập đó là:
Hiến pháp 1992 đã bỏ qua những khía cạnh quan trọng trong quan hệ giữa văn bản của Chính phủ và Chủ tịch nước. Theo điều 115 văn bản của Thủ tướng Chính phủ vẫn phải phù hợp với văn bản của Chủ tịch nước, nhưng khi nó không phù hợp thì lại không quy định cơ quan nào có thẩm quyền đình chỉ hoặc bãi bỏ. Chủ tịch nước không có quyền này (điều 113).
Mặt khác, tương quan về hiệu lực pháp lý giữa văn bản của Chính phủ và Thủ tướng lại không rõ. Đây cũng là điểm mắc mớ quan trọng trong "bước chuyển" sang nguyên tắc kết hợp chế độ tập thể lãnh đạo và chế độ Thủ trưởng đối với Chính phủ trong hiến pháp 1992.
Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương thì Bộ, các cơ quan chuyên môn của Bộ và các cơ quan khác trực thuộc Bộ đặt tại địa phương phải chấp hành các quy định của UBND các cấp về vấn đề thuộc chức năng quản lý theo lãnh thổ như: an ninh, trật tự an toàn công cộng, bảo vệ môi trường đất đai nhưng trong thực tiễn quản lý vẫn còn nhiều mâu thuẫn giữa Bộ và UBND rất phức tạp, khó giải quyết.
nh trong luật pháp. Trong các yếu tố của thẩm quyền cơ quan Nhà nước thì quyền quan trọng nhất là quyền ban hành quyết định pháp luật. Mỗi cơ quan có hình thức và phương pháp hoạt động riêng do pháp luật quy định, kể cả việc áp dụng các biện pháp hoạt động riêng do pháp luật quy định, kể cả việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế Nhà nước. Quyền thực hiện các hình thức và phương pháp hoạt động đó cũng là yếu tố quan trọng của thẩm quyền cơ quan Nhà nươc. Các cơ quan Nhà nước chỉ hoạt động trong phạm vi thẩm quyền của mình và trong phạm vi đó nó hoạt động độc lập, chủ động và sáng tạo, thẩm quyền của cơ quan Nhà nước là nghĩa vụ không phụ thuộc vào ý muốn, sự xét đoán riêng của bản thân cơ quan cũng như của bất cứ người lãnh đạo nào. Ngoài các đặc điểm chung của cơ quan Nhà nước, cơ quan quản lý Nhà nước có đặc điểm riêng, quyết định bởi chính bản chất của hoạt động chấp hành và điều hành. Thông qua các đặc điểm riêng này mà chúng ta phân biệt rõ cơ quan quản lý Nhà nước với các cơ quan Nhà nước khác (cơ quan quyền lực, viện kiểm sát, toà án). Các đặc điểm riêng cơ bản của địa vị pháp lý của cơ quan quản lý Nhà nước là: 1. Nhìn tổng thể, bộ máy hành chính Nhà nước là bộ máy chấp hành của các cơ quan quyền lực Nhà nước. Các cơ quan đầu não của bộ máy hành chính do các cơ quan quyền lực Nhà nước thành lập (Chính phủ, Bộ và các cơ quan, cơ quan ngang Bộ và các cơ quan khác thuộc Chính phủ, UBND các cấp). Do đó, chúng trực thuộc, chịu sự lãnh đạo, giám sát, kiểm tra của các cơ quan quyền lực Nhà nước tương ứng và chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước cơ quan đó. Có những cơ quan quản lý Nhà nước không do các cơ quan quyền lực Nhà nước trực tiếp lập ra mà do các cơ quan quản lý cấp trên thành lập, nhưng về nguyên tắc cũng chịu sự giám sát, lãnh đạo của các cơ quan quyền lực tương ứng. 2. Các cơ quan quản lý Nhà nước chuyên thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành tức là hoạt động mang tính dưới luật - hoạt động tiến hành trên cơ sở và để thi hành luật. Đó là hình thức chủ yếu để đưa các đạo luật và các văn bản pháp luật khác của các cơ quan quyền lực Nhà nước vào thực tiễn cuộc sống. 3. Thẩm quyền của các cơ quan quản lý Nhà nước chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động chấp hành và điều hành, chủ yếu được quy định trong các văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy Nhà nước hoặc các điều lệ, quy chế. Những quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ dân sự mà cơ quan quản lý Nhà nước có thể tham gia tương tự như tất cả các chủ thể khác của pháp luật dân sự không phải là yếu tố của thẩm quyền của các cơ quan Nhà nước. Trong phạm vi thẩm quyền của mình, của các cơ quan quản lý Nhà nước có trách nhiệm hoạt động thường xuyên hàng ngày một cách chủ động và sáng tạo để đáp ứng nhu cầu diễn biến nhanh chóng, phức tạp và đa dạng của hoạt động quản lý. 4. Tất cả các cơ quan quản lý Nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau (quan hệ trực thuộc trên - dưới, trực thuộc ngang, quan hệ chéo) tạo thành một hệ thống thống nhất có trung tâm chỉ đạo là Chính phủ đảm bảo thực hiện nhiệm vụ chấp hành và điều hành một cách mau lẹ, nhất quán và hiệu quả. Nhưng hệ thống quản lý bộ máy rất phức tạp, nhiều về số lượng cơ quan ở tất cả các cấp từ trung ương đến cơ sở cũng như sô nhiều về số biên chế. Số lượng cơ quan và biên chế này bằng gấp nhiều lần số lượng cơ quan và biên chế của tất cả các cơ quan Nhà nước khác cộng lại. Hạt nhân của các cơ quan quản lý Nhà nước là công chức. 5. Hoạt động chấp hành và điều hành của bộ máy quản lý hoàn toàn khác với hoạt động kiểm sát và hoạt động xét xử của toà án. Tuy nhiên, chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Bộ máy quản lý, toà án viện kiểm sát là những hệ thống độc lập với nhau, không có quan hệ trực thuộc. Nhưng hoạt động của các cơ quan quản lý chịu sự giám sát của viện kiểm sát (trừ hoạt động của Chính phủ) và toà án. Các cơ quan quản lý Nhà nước có trách nhiệm xem xét và trả lời các yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị của viện kiểm sát và toà án trong thời hạn do luật định. Ngược lại, các văn bản pháp luật của các cơ quan Nhà nước là một trong những căn cứ để toà án và viện kiểm sát thực hiện hoạt động kiểm sát và xét xử. Một số vấn đề tổ chức nội bộ của Toá án và Viện kiểm sát so văieọt nam bản pháp luật của các cơ quan quản lý điều chỉnh (ví dụ: về chính sách cán bộ, về quản lý cán bộ của toà án) Bộ máy quản lý được giao nhiệm vụ quản lý các ngành và lĩnh vực quản lý hành chính - chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội chủ yếu bao gồm rất nhiều các cơ quan, các tổ chức, xí nghiệp trực thuộc và chịu sự lãnh đạo của nó. Toá án và viện kiểm sát nhân dân không có các đối tượng quản lý này. II. Địa vị pháp lý của các cơ quan quản lý với việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Như phần trên đã trình bày trong các yếu tố của thẩm quyền cơ quan Nhà nước thì quan trọng nhất là quyền ban hành quyết định pháp luật. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước thì việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhằm thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành. Những văn bản này đều có những đặc điểm của văn bản Nhà nước nói chung, đặc biệt là tính chất pháp lý của nó tuy nhiên là những văn bản hành chính Nhà nước bao giờ cũng là những văn bản dưới luật được ban hành trên cơ sở để chấp hành Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh và các Nghị quyết của các cơ quan quyền lực. Thực tiễn việc ra các văn bản quy định pháp luật đã được quy định đầy đủ trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 (sửa đổi bổ sung 2002) của Quốc hội. Tuỳ vào vị trí, tính chất pháp lý và hoạt động của từng cơ quan quản lý trong bộ máy hành chính Nhà nước để ra các văn bản pháp luật có giá trị pháp lý khác nhau. 1. Chính phủ Theo hiến pháp 1992 - Điều 109 quy định:"Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước CHXHCNVN" Như vậy Hiến pháp 1992 đã khẳng định rằng về hoạt động chính Nhà (hoạt động hành pháp) thì Chính phủ là cơ quan cao nhất của Nhà nước ta, tức là cơ quan đứng đầu hệ thống hành pháp. Địa vị pháp lý của chính phủ còn được thể hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội, quốc phòng an ninh và đối ngoại của Nhà nước, bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở, bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành hiến pháp và pháp luật, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. (Điều 109 khoản 2) Xuất phát từ địa vị pháp lý, từ vai trò nhiệm vụ của Chính phủ"căn cứ vào Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước, Chính phủ ban hành Nghị quyết, Nghị định"(Điều 15. Luật ban hành văieọt nam bản quy định phạm pháp luật). Các văn bản của Chính phủ có hiệu lực trong phạm vi toàn quốc và là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động của cả hệ thống bộ máy quản lý là phương tiện chủ yếu đảm bảo việc thi hành các nhiệm vụ, chức năng quản lý trên phạm vi cả nước. Chế độ Thủ tướng thể hiện cụ thể và rõ nét nhất trong các quyền hạn cụ thể của Thủ tướng. Điều 114 - Hiến pháp 1992 đã quy định cụ thể cho Thủ tướng một số quyền hạn rất quan trọng mà trước đây thuộc quyền hạn của Hội đồng bộ trưởng hoặc của Hội đồng nhân dân dân tỉnh. Đặc biệt thủ tướng chính phủ còn có thẩm quyền ban hành quyết định và chỉ thị. (Điều 15 - Luật ban hành văn bản quy phạm pháp lý). Các văn bản của Thủ tướng chính phủ có hiệu lực trong toàn quốc trên cơ sở văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó (Điều 115 - Hiến pháp 1992). Như vậy theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 (sửa đổi bổ sung năm 2002) thì hệ thống văn bản pháp luật của Chính phủ đã đơn giản và khoa học hơn trước. Theo hiến pháp mới tập thể Chính phủ và Thủ tướng chính phủ ban hành 4 loại văn bản (Nghị định, Nghị quyết, Quyết định, Chỉ thị) và chúng phân biệt rõ ràng với nhau về tên gọi, trình tự ban hành. Điều đó chứng tỏ địa vị pháp lý của Chính phủ cũng đã được thay đổi so với trước kia. 2. Các cơ quan quản lý Nhà nước ở trung ương. "Bộ, chính quyền ngang bộ là chính quyền của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác trong phạm vi cả nước" (Điều 22 Luật tổ chức Chính phủ, thông qua ngày 30/9/1992, Điều 1 Nghị quyết số 15 Công ty cổ phần vật liệu và xây lắp Nghĩa Hưng của Chính phủ ngày 2/3/1993 về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý Nhà nước của bộ, cơ quan ngang bộ). Các cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương (sau đây gọi chung là "Bộ" thực hiện chức năng "quản lý Nhà nước của bộ và hoạt động của các tổ chức kinh doanh sự nghiệp "Điều 2 Nghị định số 15/CP). Đặc biệt, Hiến pháp 1992 quy định rõ trách nhiệm của Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ phải "bảo đảm quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các cơ sở theo quy định của pháp luật" (Điều 116) Như vậy vị trí và tính chất pháp lý của Bộ được quy định khá rõ ràng trong các văn bản luật của Nhà nước. Để có những quyền hạn cụ thể để quản lý được tốt, Luật ban hành văn bản quy định pháp luật đã trao thẩm quyền cho Bộ trưởng, Thủ tướng chính quyền ngang Bộ, Thủ tướng cơ quan thuộc Bộ, Thủ tướng cơ quan Chính phủ"căn cứ vào Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Lệnh, Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ tướng cơ quan ngang Bộ, Thủ tướng cơ quan thuộc Chính phủ ban hành Quyết định, Chỉ thị, Thông tư". Để thực hiện các quyền hạn của mình ngoài việc ban hành văn bản thì việc đồng thời với nó là Bộ trưởng và Thủ tướng các cơ quan quản lý ngành và lĩnh vực thuộc Chính phủ phải kiểm tra việc thi hành các văn bản đó với tất cả các ngành, các địa phương và cơ sở. Những Quyết định, Chỉ thị, Thông tư trái pháp luật của Bộ trưởng và Thủ trưởng các cơ quan thuộc Chính phủ thì bị Thủ tướng đình chỉ hoặc bãi bỏ. 3. Các cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương. Hiến pháp 1992 quy định "UBND do Hội đồng nhân dân bầu là chính quyền chấp hành Hội đồng nhân dân, chính quyền hành chính Nhà nước ở địa phương chịu trách
File đính kèm:
- T058.doc