Tiểu luận Mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và xã hội phân tích vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam
MỤC LỤC
MỤC TRANG
PHẦN MỞ ĐẦU 1
ã Vấn đề là gì? 1
ã Mục đích của đề tài 2
PHẦN CHÍNH
1. Cơ sở lí luận 3
1.1. Các khái niệm 3
1.2. Mối quan hệ biên chứng giữa tự nhiên và xã hội 3
1.2.1. Xã hội - bộ phận đặc thù của tự nhiên 3
1.2.2. Tự nhiên - Con người - Xã hội nằm trong 4
một chỉnh thể thống nhất
1.2.3. Tự nhiên - nền tảng của xã hội 5
1.2.4. Tác động của xã hội đến tự nhiên 5
1.2.5. Những yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa 6
tự nhiên và xã hội
1.2.6. Môi trường - vấn đề của chúng ta 7
2. Vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam 7
2.1. Khái quát về môi trường và các nguồn tài nguyên của 7
Việt Nam
2.1.1. Tài nguyên đất Việt Nam 12
2.1.2. Tài nguyên nước Việt Nam 12
2.1.3. Tài nguyên khoáng sản Việt Nam 13
2.1.4. Môi trường và tài nguyên biển Việt Nam 13
2.1.5. Tài nguyên rừng và đa dạng sinh học 13
2.1.6. Vấn đề môi trường ở Việt Nam 15
2.2. Nhìn ra thế giới - Những bài học 17
2.2.1. Vấn đề môi trường trên thế giới 17
2.2.2. Thế giới hành động - Lối thoát 18
2.3. Việt Nam hành động 20
PHẦN KẾT 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO 23
tự nhiên hơn cũng ra đời như điện tử, phần mềm (mới ra đời trong thời gian gần đây). Tuy nhiên cho đến nay xã hội vẫn phụ thuộc môi trường tự nhiên rất nhiều, nó có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây khó khăn cho sản xuất, do đó ảnh hưởng đến năng suất lao động, tốc độ phát triển của xã hội. Ta có thể lấy một ví dụ về sự ảnh hưởng của môi trường đối với sự phát triển của xã hội, hãy xem những sự phụ thuộc vào môi trường tự nhiên từ xa xưa của các xã hội đã ảnh hưởng đến tận ngày nay như thế nào: Đây là một đoạn trích từ bài viết "Jared Diamond và vận mệnh của các nền văn minh" của tác giả Trần Hữu Dũng đăng trên tạp chí Tia Sáng số 3, tháng 3, năm 2005: Trong cuốn "Súng, Vi trùng, và Thép: Định mệnh của các Xã hội Loài người" (Guns, germs and Steel: The Fates of Human Societies", New York: Norton, 1997) Jared Diamond viện dẫn những yếu tố môi trường và cấu trúc để giải thích tại sao các nước Tây phương trổ nên thống trị thế giới. Mục đích của ông, Diamond bộc bạch ngay từ đầu, là nhằm triệt hạ những ý kiến cho rằng chủng tộc, văn hóa và truyền thống có ảnh hưởng quyết định đến những khác biệt về công nghệ của những xã hội khác nhau, trên những châu lục khác nhau, trong suốt lịch sử. Diamond tóm tắt phát hiện của ông như sau: Lịch sử của các nhóm dân khác nhau không phải vì sự khác biệt sinh học (biological) giữa các sắc dân mà vì sự khác biệt về môi trường sinh sống ngay từ đầu. Nói cách khác, lý do căn bản của sự bất bình đẳng trong thế giới ngày nay bắt nguồn từ rất xa trong quá khứ. Hãy lấy năm 1500 sau công nguyên làm điểm mốc. Có thể xem năm này là khởi điểm thời kỳ các nước châu Âu đi chinh phục các châu lục khác. Lúc ấy thì các nước đã có sự khác biệt về trình độ công nghệ và tổ chức chính trị. Phần lớn Âu, á và Bắc Phi đã có những quốc gia ở vào thời kỳ đồ sắt thậm chí vài nước đã sắp sang thời kỳ công nghiệp hóa. Hai nhóm ở châu Mỹ (Inca và Aztec) đã là những đế quốc có dụng cụ bằng đá và bắt đầu thử nghiệm với đồng. Những dân tộc khác thì kém phát triển hơn: Đa số dân ở châu úc, châu Mỹ và châu Phi (vùng dưới Sahara) vẫn còn hoàn toàn dựa vào nông nghiệp, thậm chí vài nhóm vẫn còn sống nhờ săn bắn và lượm nhặt với khí cụ bằng đá. Lẽ dĩ nhiên, những khác biệt ấy về trình độ công nghệ vào khoảng năm 1500 là nguyên do gần gũi nhất đưa đến sự chênh lệch hiện nay trên thế giới. Những đế quốc có khí cụ bằng sắt sẽ chinh phục hoặc tiêu diệt những nhóm dân chỉ có khí cụ bằng đá. Nhưng Jared Diamond không hoàn toàn thỏa mãn với cách trả lời này. Ông gặng hỏi: Nhưng tại thế giới lại có tình trạng ấy vào năm 1500? Ngược dòng lịch sử xa hơn nữa, từ khi thời đại băng hà chấm dứt cho đến 11000 năm trước tây lịch, mọi người ở khắp các châu lục đều sống nhờ săn bắn và hái nhặt. Như vậy, chính sự khác biệt về tốc độ phát triển (cụ thể là giữa lục địa Âu á và những lục địa khác) từ năm 11000 trước tây lịch đến 1500 năm sau tây lịch đã đưa đến sự chênh lệch mà ta thấy khoảng năm 1500. Diamond đơn cử trường hợp châu Âu thuộc địa hóa Tân Thế giới. Hiển nhiên, đó là vì người châu Âu có tàu bè, có tổ chức chính trị, có súng, có gươm thép, có ngựa, rồi cơ may lại đem theo những loại vi trùng bệnh tật giết thổ dân da đỏ ngay trước khi những người này đứng lên chống cự (vì thế sách có tên "Súng, Vi trùng và Thép"). Song Diamond không dừng lại ở đó, ông tra hỏi thêm. Thế thì tại sao dân châu Âu có những lợi điểm ấy mà thổ dân châu Mỹ không có (đặc biệt, tại sao các vi trùng của dân châu Âu lại độc địa đối với thổ dân châu Mỹ thay vì ngược lại?). Càng truy gặng, càng lùi ngược về quá khứ, Diamond càng thấy các yêu tố môi trường là quan trọng. Cụ thể, Diamond phân biệt bốn cách khác nhau về môi trường: Khác nhau thứ nhất giữa các đại lục là về các giống thảo mộc và động vật hoang dã mà con người có thể đem về nuôi trồng. Ông lý luận rằng khả năng nuôi trồng là quyết định khả năng có lương thực thặng dư, và chỉ khi lương thực có thặng dư thì xã hội mới "nuôi" được một thành phần "chuyên viên" giúp xã phát triển những lĩnh vực như công nghệ, văn hóa, v.v...Chính những phát triển này sẽ tạo cho xã hội liên hệ những ưu thế chính trị và quân sự so với láng giềng. Khác nhau thứ hai là về những yếu tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch (cả người lẫn vật) trong cùng một lục địa. Những sự chuyển dịch này là dễ dàng nhất ở lục địa Âu á, bởi vì hướng chính của lục địa này là đông tây, tương đói ít ngăn trở môi sinh và địa lý. Khác nhau thứ ba là về những yếu tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch giữa các lục địa. Vì những ngăn cản địa lý, nhiều lục địa không nhận được những công nghệ hay thú vật, thảo mộc từ các lục địa khác. Song, Diamond cũng nhìn nhận, sự biệt lập này lắm khi cũng có lợi vì nó khuyến khích phát triển những giống vật nuôi trồng tại địa phương, cũng như các công nghệ bản địa. Cái khác nhau cuối cùng là về dân số và diện tích đất đai. Lục địa càng rộng càng đông dân thì càng có nhiều người phát minh. Hơn nữa, trong một lục địa như vậy sẽ có nhiều xã hội tranh đua hơn, rồi chính sự tanh đua giữa các xã hội gần gũi nhau đó sẽ gây áp lực phát minh và cải cách, bởi lẽ những quốc gia "tụt hậu" sẽ bị các quốc gia khác thống trị, thậm chí tiêu diệt. Một đoạn thích thú trong quyển sách là sự so sánh của Diamond về sự tiến bộ công nghệ giữa Trung Quốc và Tây phương. Trung Quốc đã có những hạm đội viễn dương vào những năm đầu của thế kỷ XV nhưng sau đó không lâu thì lại giải thể hạm đội này, chấm dứt mọi hoạt động viễn du, vì lệnh triều đình (cụ thể là do sự tranh chấp quyền lực giữa các phe trong triều đình lúc ấy). ở châu Âu, trái lại, nhà thám hiểm Columbus đã tìm được tài trợ cho chuyến đi của ông từ triều đình Tây Ban Nha sau khi bị nhiều nơi khác từ chối. Theo Diamond, sự thống nhất của Trung quốc cho phép nước này canh tân trước phương Tây, song cũng chính sự thống nhất sớm của Trung quốc đã làm giảm đi khả năng đổi mới của nước này. Triều đình ra lệnh một cái là mọi hoạt động canh tân dừng lại ngay! ở châu âu thì khác: Một tiến bộ bị ngăn chặn ở nước này có thể được tiếp tục ở nước khác. các nước châu Âu đủ gần gũi nhau để chia sẻ những ý kiến mới, nhưng quyền hành lại không tập trung đến độ có thể hoàn toàn giết chết một ý mới... Có nhiều người có thể không thấy thực sự bị thuyết phục bởi trọng tâm ý kiến của ông (mà họ cho rằng) theo đó mọi việc đều là hậu quả tất nhiên của địa lí, cộng với tình trạng dân số ngày càng cao. Nhiều người cho rằng Diamond coi nhẹ vai trò của trí tuệ và do đó không thấy hết được sự quan trọng của khoa học trong tiến trình lịch sử. Tuy nhiên trong lời bạt viết thêm khi cuốn sách này tái bản năm 2003, Diamond khẳng định ông không hề xem nhẹ những yếu tố về con người, tư tưởng hay văn hóa. Ông chỉ muốn nói rằng nhìn suốt nhiều nghìn năm lịch sử thì vai trò của môi trường và địa lí thực có tính quyết định. Vài nét về Jared Diamond: Jared Diamond (người Mỹ, sinh năm 1937) hiện là giáo sư địa lí của trường Đại học California tại Los Angeles (UCLA). Tuy ông có bằng tiến sĩ về sinh lí học, nhưng kiến thức của ông bao trùm hầu như mọi ngành, từ kiến trúc, ngôn ngữ, khảo cổ, đến động vật học, y học. Ông cũng không phải là một học giả "tháp ngà": ông đã đi khắp châu lục, thậm chí sống nhiều năm ở những nơi "gần như tận cùng thế giới" (như đảo Tân Ghi-nê, đảo Phục Sinh). Hai cuốn sách của ông (một cuốn ra năm 1997, đoạt giải Pulitzer, thuộc hàng "best seller", và một cuốn vừa ra cuối năm 2004) đã đặt ông vào hàng ngũ những nhà tư tưởng hiện đại có nhiều ảnh hưởng nhất ở Mỹ. Bài trích trêm được đưa ra chỉ nhằm đưa thêm một ý kiến khẳng định tầm quan trọng của môi trường tự nhiên với xã hội chứ không có ý định bác bỏ vai trò của con người. Sự bùng nổ dân số: Khi nói đến vấn đề môi trường, tự nhiên và xã hội có một điểm ta không thể không đề cập, đó là sự bùng nổ dân số. Mỗi cá thể người đều có những nhu cầu của riêng nó, nó cần tiêu thụ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, và gây ra các ảnh hưởng nhất định đến môi trường. Khi dân số phát triển ngày càng cao thì như cầu với tự nhiên càng lớn; những nhu cầu thiết yếu như ăn mặc, thực phẩm, thuốc men, nước sạch ngày càng thiếu thốn. Đồng thời nhiều vấn đề môi trường cũng nảy sinh như ô nhiễm nguồn nước, rác thải đặc biệt là việc tăng cường khai thác các nguồn đến cạn kiệt các nguồn tài nguyên nhằm đáp ứng các nhu cầu của con người. áp lực lên môi trường ngày càng lớn và thực sự khả năng chịu đựng của môi trường là có hạn. Sự bùng nổ dân số thực tế là sự tăng lên rất nhanh của số lượng cá thể của quần thẻ người là một ví dụ cho sự phát triển vốn có ở tất cả các loài. Một quy luật kèm theo là: Khi số lượng cá thể của quần thể vượt quá khả năng chịu đựng của môi trường thì sự chết hàng loạt sẽ xảy ra nhưng thường là từng vùng chứ không phải là quy mô toàn cầu (I.M. Barrett and oth, 1986) Nếu điều này xảy ra với loài người thì quả là tai họa. Mà những cách ứng xử sai của con người với tự nhiên hiện nay đang làm giảm đi sức chịu đựng của tự nhiên. Do đó chúng ta cần giải quyết tốt vấn đề môi trường va cư xử đúng với tự nhiên. Nguyên nhân của sai lầm này là do chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, cần xóa bỏ nó, khi xây dựng đựoc chế độ xã hội chủ nghĩa, con người sẽ cư xử tốt hơn với tự nhiên vì không còn bị lợi nhuận chi phối. 2. Vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam: Qua phần trên chúng ta thấy rõ ràng cần phải bảo vệ môi trường, gìn giữ sự cân bằng của hệ thống tự nhiên - xã hội nhằm đảm bảo sự tồn tại phát triển lâu dài và ổn định cho xã hội loài người. Giờ chúng ta sẽ xem xét vấn đề trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. 2.1. Khái quát về môi trường và các nguồn tài nguyên của Việt Nam: Việt Nam: Những số liệu thống kê chính Thủ đô : Hà Nội Ngôn ngữ chính thức : tiếng Việt Đơn vị tiền tệ : đồng Diện tích : 329.566 km2 Dân số ước tính (năm 1998) : 78 triệu người Tốc độ tăng trưởng dân số : 2,3% Mật độ dân cư : 210 người/km2 Thời gian tăng gấp đôi số dân : 31 năm Diện tích bảo tồn trên tổng số diện tích : 7 % Tổng số diện tích được bảo tồn : 22.976 km2 Số khu vực được bảo tồn : 101 Nguồn: UNFPA, Cụ
File đính kèm:
- T087.doc