Tiểu luận Học thuyết về hình thái kinh tế - Xã hôi và vấn đề quá độ lên CNXH ở Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU

I. Hình thái KTXH- Mác Lênin : 2

1. Lực lượng SX và quan hệ sản xuất: 3

2. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng: 5

a. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng: 5

b. Tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của kiến trúc 6

thượng tầng:

 II. Sự vận dụng hình thái KT- XH vào vấn đề quá độ lên CNXH ở VN: 7

 1. Mục đích : 8

 2. Thực trạng sự nghiệp CNH- HĐH ở Việt Nam: 10

 3. Một số biện pháp: 11

 * Một số vấn đề cần lưu ý: 15

 III. Kết luận : 17

 IV. Tài liệu tham khảo: 18

 

doc19 trang | Chia sẻ: Thewendsq8 | Lượt xem: 1866 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Học thuyết về hình thái kinh tế - Xã hôi và vấn đề quá độ lên CNXH ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơ khai một thời kỳ mông muội của loài người . Sau đó đến hình thái kinh tế xã hội : Chiếm hữu nô lệ , con người đã văn minh hơn họ không còn ăn tươi sống và đã biết lao động tạo ra của cải : xã hội xuất hiện chế độ tư hữu , bắt đầu phân chia thành kẻ giầu người nghèo .Hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ , quan hệ giữa hai giai cấp đó là quan hệ bóc lột hoàn toàn của cải vật chất và con người . Nô lệ biến thành công cụ lao động . Vấn đề giai cấp khi lên đến xã hội phong kiến bản chất vẫn là quan hệ bóc lột , nhưng sự bóc lột thể hiện qua sự cống nạp . Người nông dân , tá điền phải làm thuê và nộp thuế cho quan lại , địa chủ , song họ có một chút quyền lợi là được tự do .
 Hình thái kinh tế xã hội : Tư bản chủ nghĩa ra đời đưa loài người lên nấc thang cao hơn của nền văn minh . Xã hội đã phong phú hơn về giai cấp . Giai cấp thống trị là giai cấp cơ bản . Thủ đoạn bóc lột của chúng tinh vi hơn rất nhiều lần so với sự bóc lột trước đó trong các xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến . Người công nhân làm thuê bị bóc lột sức lao động qua giá trị thặng dư , sự làm việc quá sức .Mặc dù tư bản xã hội chủ nghĩa tạo ra một lượng của cải vật chất rất lớn cho xã hội , nhưng bản chất bóc lột cùng những mâu thuẫn khác nhau là không thể điều hoà . Phần đông con người trong xã hội tư bản chủ nghĩa đều bị mất quyền lợi bình đẳng . Cả ba chế độ nô lệ , phong kiến , tư bản chủ nghĩa có những đặc điểm riêng nhưng nó đều là chế độ có khác nhưng mâu thuẫn đối kháng không thể điều hoà giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột , dựa trên sự tư hữu về sản xuất . Giai cấp bóc lột là giai cấp thống trị , mọi hoạt động về mặt kinh tế chính trị xã hội đều phục vụ cho quyền lợi của chính họ.
 Một hình thái kinh tế xã hội tồn tại được thì nó phải có những mặt tốt nhất định của nó chúng ta cũng không thể phủ nhận những thành quả mà các hình thái kinh tế xã hội nói trên đã đạt được . Xã hội cộng sản nguyên thuỷ là chế 
độ xã hội đầu tiên đặt nền móng cho sự phát triển của loài người . Trong xã hội chiếm hữu nô lệ giai cấp thống trị bắt đầu tích luỹ của cải cho xã hội , quan trọng nhất là nó đưa con người ra khỏi thời kỳ mông muội hoang dã . Hình thái kinh tế xã hội là chế độ xã hội bước đầu vừa phát huy thừa kế những thành quả của chủ nghĩa tư bản , đồng thời khắc phục những mâu thuẫn những hạn chế của tư bản chủ nghĩa . Một xã hội mà quyền lực nằm trong tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động - một tầng lớp đông đảo của xã hội . Mọi hoạt động kinh tế - văn hoá - chính trị phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội .
Không còn tình trạng bóc lột ,mọi người đều bình đẳng , sinh hoạt lao động dưới sự quản lý của Nhà nước thông qua pháp luật thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất , chế độ tập chung dân củ công bằng xã hội . Quan hệ sản xuất được xâi dựng trên cơ sở của lực lượng sản xuất và trình độ phát triển cao cơ sở hạ tầng phù hợp với kiến trúc thượng tầng .
Đây là hình thái kinh tế xã hội ưu việt một đỉnh cao của văn minh loài người . 
 	Từ hai vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội , một là con đường tư bản chủ nghĩa và con đường đi từ tiến tư bản chủ nghĩa . 	
 Việt Nam từ một nền kinh tế tiểu nông muốn thoát ra khỏi nghèo nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ một nước phát triển bằng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước .
1.Mục đích :
 	Mục tiêu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định là : Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại . Cơ cấu kinh tế lập hiến , quan hệ sản xuất tiến bộ , phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất , đời sống vật chất và tinh thần cao , quốc phòng an ninh vững chắc dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh , và nước ta đã chuyển sang một thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đây là những nhận định rất quan trọng đối với những bước đi tiếp theo trong sự nghiệp đổi mới . 
Công nghiệp hoá là một quá trình nhằm đưa nước ta từ một neenf công nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp hiện đại . 
 Hiện đại hoá là một mục tiêu cơ bản của văn minh hiện đại , thể hiện xu hướng lịch sử tiến bộ .
 Đó là nhiệm vụ quan trọng có tầm cỡ to lớn , đòi hỏi phải đi từ cái cụ thể đến cái tổng thể . Trước hết cần hiểu rõ thực trạng và những định hướng trung của Việt Nam trình độ lực lượng sản xuất ở mức thấp , quá độ lên chủ nghĩa xã hội lại không phải từ chủ nghĩa tư bản mà từ bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản với tư cách là một chế độ xã hội . Vì vậy cần phải nhận thức đầy đủ và sáng tạo các quy luật khách quan , trong đó quy luật sản xuất phù hợp với tính chất trình độ lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất nhằm cải tảo cac thành phần kinh tế khai thác mọi tiềm năng sản xuất . Phát huy tính chủ động sáng tạo của các chủ thể các thành phần kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần kinh tế quốc doanh phải phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả để thực sự có tác dụng chủ đạo với các thành phần kinh tế khác . 
 Chúng ta phải khắc phục quan niệm bỏ qua chủ nghĩa tư bản một cách giản đơn. Phải khai thác sử dụng tối đa chủ nghĩa tư bản làm khâu"trung gian"để chuyển nền sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội như Lênin đã chỉ ra .
 Chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và việc sử dụng các thành hình thức kinh tế trung gian quá độ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta mà Đại hội VI vạch ra là đúng đắn . Đại hội VII của Đảng cũng chỉ rõ " phù hợp với sự phát triển lực lượng sản xuất thiết lập từng bước quan hệ sản xuất từ xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng sản xuất chủ nghĩa tiến hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý Nhà nước ". Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngài càng trở thành nền tảng của kinh tế quốc doanh.Thực hiện nhiều hình thức phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu . Đó là một trong những phương hướng cơ bản của quá trình xâi dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ đất nước ta . Hơn nữa sự vận dụng đúng đắn của các quy luật quan hệ sản xuất , phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là cần thiết . Bên cạnh đó từng bước cơ sở xây dựng hạ tầng và cơ sở thượng tầng Đặc biệt là xây dựng Nhà nước của dân , do dân ,vì dân . 
 Thực hiện đa dạng hoá về tình hình sản xuất quản lý và phân phối theo lao động .
2.Thực trạng sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam.
 Trước đây trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước chúng ta đã xác định cong nghiệp hoá "là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội "song vẫn mắc phải sai lầm bằng cách nhận thức về công nghiệp hoá .
 Từ cuối những năm 70 , đất nước đã lâm vào khủng hoảng kinh tế xã hội với những khó khăn găy gắt lạm phát . 
 Khi đó do tư duy lý luận bị lạc hậu , giữa lý luận và thực tiễn có khoảng cách quá xa tư duy cũ về chủ nghĩa xã hội theo mô hình tập trung quan liêu , bao cấp đã cản trở sự phát triển của thực tiễn sản xuất , chế độ bao cấp dẫn đến tình trạng trì chệ trong công việc : ỷ lại lười nhác , phụ thuộc vào Nhà nước .Không năng động sáng tạo bằng công tác được giao , không cần quan tâm đến kết quả đạt được .
 	Trong sản xuất sản phẩm làm ra không đủ chất lượng lạm phát càng tăng .
Kìm hãm sự phát triển kinh tế đất nước đời sống xã hội thấp kém , nghèo khó .
Trước đây chúng ta do không thấy được quy luật lực lượng sản xuất phát triển sẽ kéo theo quan hệ sản xuất phát triển nên chúng ta đã đi ngược lại quy luật này và muốn áp đặt một quan hệ sản xuất để kéo theo sự phát triển của lực lượng sản xuất . Sau khi tiến hành đổi mới chúng ta đã tuân theo đúng quy luật chuyển nền kinh tế sang nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động trên cơ chế thị trường làm cho năng xuất lao động tăng , lực lượng sản xuất phát triển do đó quan hệ sản xuất càng phát triển theo .Mặt khác phải tạo ra yếu tố tích cực biến các yếu tố chủ quan vì nó có tính độc lập tương đối vì rằng ý thức có tính vượt trước nên quan hệ sản xuất có khả năng vượt so với sản lượng sản xuất vượt trước ở đây là sự vượt trước có tính phù hợp , vượt trước dựa trên cơ sở suy luận khoa học lôgic, dựa trên các quy luật và cao hơn là sự vượt trước kiến trúc thượng tầng so với cơ sở hạ tầng . Nó cũng phải dựa trên sự phù hợp với quy luật và cơ sở lý luận.
 Đáng tiếc là chúng ta vì muốn rút ngắn thời kì quá độ chúng ta đã tuyệt đối hoá nhân tố chủ quan và chính trị cho rằng chỉ cần nội dung và sự lãnh đạo của Đảng cộng sản thì chúng ta có thể làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất .
 Kết quả cuối cùng đem lại là kinh tế quốc doanh kém hiệu quả còn kinh tế ngoài quốc doanh lại bị kìm hãm không ngóc đầu lên được .Nền kinh tuy đạt được độ tăng trưởng nhất định nhưng sự tăng trưởng đó không có phát triển vì dựa vào bao cấp , bởi chi ngân sách lạm phát vay nợ nước ngoài .Con người không được giải phóng và bị lâm vào tình trạng khủng hoảng lạc hậu trì trệ làm tăng chi phí lớn của cải xã hội . 
 Đến khi áp dụng chính sách khoán đất cho nhân dân tự trồng trọt , phá bỏ hợp tác thì nên nhà nước đã có những bước chuyển mình rất rõ rệt .
 Trong công nghiệp 
 Trong lựa chọn bước đi , đã có lúc chúng ta thiên về "ưu tiên phát triển công nghiệp nặng coi đó là giải pháp cơ sở vất chất - kỹ thuật cho công nghiệp. Mà không coi trọng đúng mức của việc phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ , công nghiệp hoá cũng hiểu được một cách giản đơn là quá trình xây dựng một nền sản xuất được cơ khí hoá trong tất cả các nghành kinh tế quốc dân . Chúng ta thực hiện chủ nghĩa xã hội ồ ạt với quy mô lớn . Quốc hữu hoá toàn bộ các xí nghiệp tư nhân .
 Kế hoạch kinh tế của nước ta hầu như dậm chân tại chỗ với những viện nghiên cứu bao cấp chỉ đạo thì làm sao không thể phát huy được năngnlực sáng tạo với đồng vốn ít không đủ để cho nghiên cứu không cung cấp đầy đủ kinh phí cho các việc ứng dụng nó vào thực tiễn sản xuất .Trong khi đó nhìn ra bên ngoài khoa

File đính kèm:

  • docT075.doc
Giáo án liên quan