Tiểu luận Giá trị và hạn chế của phật giáo trong phương pháp tư duy của người Việt Nam

Phật giáo là một tôn giáo, nhưng trong đó hai yếu tố tôn giáo và triết học quện vào nhau, làm cơ sở luận chứng cho nhau. Ở đây, chúng ta chú ý tới yếu tố triết học. Về mặt này, Phật giáo đã có ảnh hưởng lớn tới phương pháp tư duy của người Việt Nam. Trong đó có những giá trị, đồng thời cũng có nhiều hạn chế.

Tiếp thu Phật giáo, tư duy người Việt có thêm một loạt khái niệm và phạm trù nói lên bản thể luận, nhận thức luận là những vấn đề cơ bản của triết học. Trong thế giới quan phức hợp nhiều thành phần của người Việt Nam thì Phật giáo là thành phần có ý nghĩa triết học nhiều nhất.

 

doc15 trang | Chia sẻ: Thewendsq8 | Lượt xem: 3185 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Giá trị và hạn chế của phật giáo trong phương pháp tư duy của người Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ười nghèo khổ đều băn khoăn và mong muốn có một ngày nào đó được đổi đời. Trong một chế độ xã hội người bóc lột người như chế độ phong kiến, con người chưa tìm được sức mạnh để giải phóng mình ở chính bản thân mình. Người ta đặt hy vọng vào một lực lượng siêu nhiên, đặt niềm tin vào tôn giáo.
	Tín ngưỡng nguyên thuỷ đã thoả mãn phần nào nhu cầu của con người Việt Nam trong lịch sử. Tín ngưỡng đó với các nguyên lý: Thờ tổ tiên thì được tổ tiên phù hộ, thờ thổ công thì được thổ công cho phúc, thờ thành hoàng thì được thành hoàng bảo vệ... đã gieo vào lòng người những niềm tin.
	Nhưng tín ngưỡng thô sơ đó không thoả mãn được nhu cầu tâm lý và nhận thức của con người Việt Nam. Cùng với sự phát triển của xã hội, người Việt Nam ngày càng mong muốn hiểu được ý nghĩa cuộc sống của mình, muốn biết sự sinh thành của mình, muốn biết quan hệ nhân quả trong cuộc đời mình... Phật giáo với lý thuyết: Khổ, tập, diệt, đạo, nghiệp, vô, thường, ngã ... đã đáp ứng được phần nào nhu cầu đó. Phật giáo do đó đã thay thế được các tín ngưỡng cổ truyền, trở thành tôn giáo chung của nhiều địa phương và cuối cùng là của cả đất nước.
	Sống và yêu cầu sống không được đáp ứng trong hiện thực xã hội, không những là điều kiện cho Phật giáo du nhập và thắng thế, mà còn là cơ sở qui định sự phát triển của các tông phái. Phật giáo ở Việt Nam, Tông phái nào chú ý đến yêu cầu sống của dân, đến cảnh khổ đau thì ăn sâu phát triển, tông phái nào lý luận cao siêu nhưng không chú ý mấy đến sự thoả mãn yêu cầu của con người thì dù có được thịnh hành cũng chỉ là hiện tượng tạm thời trong lịch sử.
	Phật giáo truyền vào nước ta là Phật đại thừa với cả ba tông phái: Thiền tông, Mật tông, Tinh độ tông. 
	Thiền tông với các quan niệm: Phật tại tâm, Phật có ở mọi nơi, ai cũng có thể trở thành Phật, có thể trở thành Phật ngay tức khắc... đã nâng con người lên trong ách kìm kẹp nặng nề của trật tự phong kiến và Nho giáo. Nhưng Thiền tông không đề cập đến những nhu cầu thực tế, hàng ngày nên chỉ được thịnh hành trong một giai đoạn lịch sử (Lý - Trần).
	Mật tông với thuật phù chí, bùa phép, với phương pháp hàng long phục hổ, trấn tà yểm huyệt, tuy thô thiển về mặt cách thức nhưng hứa hẹn thoả mãn một điều gì đó trong tâm lý con người, nên được nhiều người tin theo nhất là quần chúng người nghèo khổ. Nhưng nổi hơn cả , có sức hấp dẫn hơn cả phải tính đến Tinh độ tông.
	Tinh độ tông với chủ trương niệm Phật A-di-đà, với sự tôn thờ Phật Quan thế âm, với quan niệm sống từ bi hỉ xả, thì khi chết sẽ được về nơi tịnh thổ, được lên cõi niết bàn, được thoát khỏi cảnh trầm luân khổ ải ở kiếp sau, đã đánh đúng vào yêu cầu thoát khổ thoát nạn của con người trần gian, nên đã có sức lôi cuốn đặc biệt. Người ta dốc lòng tin theo Phật Quan thế âm. Người ta còn tạo nên Phật Bà Quan âm nghìn mắt, nghìn tay để chứng tổ rằng có một vị Phật có thể thấy được hết khổ ải của chúng sinh, có thể cứu vớt được hết mọi người khổ đau. Chính do chủ trương cứu khổ, cứu nạn, đổi đời người như thế nên Tịnh độ tông trở thành tông phái chủ đạo của Phật giáo Việt Nam và xuyên suốt trong lịch sử.
	Có thể nói Phật giáo, nhất là Tịnh độ tông là một phương thức thoả mãn nhu cầu tinh thần của con người Việt Nam trong lịch sử. Chừng nào thế giới quan vô thần và khoa học chưa đủ điều kiện để thống trị trong đầu óc họ thì những vị Phật do con người tạo ra dù âm thầm ngồi dưới mái chùa chật hẹp , hay đứng phơi ngoài không gian rộng lớn vẫn còn sức hấp dẫn nhiều người.
chương iii
Phật giáo trong thế giới quan của người Việt Nam
	Như bất cứ một cộng đồng nào khác, cộng đồng người Việt Nam trong thời kỳ cổ đại muốn tồn tại và phát triển thì phải lợi dụng, chế ngự và cải tạo thiên nhiên xung quanh mình, phải tổ chức cải tạo xã hội của mình, phải duy trì và phát triển giống nòi. tính chất đó đã làm cho hoạt động thực tiễn của họ ngay từ đầu trở đã có tính toàn diện. Vì vậy thế giới quan với đặc trưng là hình ảnh của sự vận động đó của họ cũng ngay từ đầu đã mang tính chất toàn diện.
	Trong thời kỳ cổ đại và trung đại, mặc dù nền sản xuất thấp kém, khoa học tự nhiên chưa xuất hiện, công nghiệp không có trên đất Việt Nam mặc dù những nhận thức về tự nhiên và xã hội ở Việt Nam phần nhiều còn ngây thơ, chất phác, còn dừng lại ở mức độ tư duy kinh nghiệm nhưng những tác phẩm thành văn và hiện vật ghi chép lại đã cho thấy ở họ có một bức tranh tổng quát và hoàn thiện về thế giới.
	Do hoàn cảnh lịch sử, các học thuyết Nho, Phật,, Lão từ bên ngoài truyền vào nước ta. Các học thuyết đó không những không phá vỡ sự hoàn chỉnh vốn có của thế giới quan người Việt Nam mà còn dung hoà phát triển trên cơ sở đó. Xét về mặt chất thì Nho, Phật, Lão có quan niệm khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau về thế giới, xã hội và con người. Nhưng xét về mặt kết cấu của một thế giới quan thì Nho, Phật, Lão lại là các bộ phận cần thiết hợp thành. Giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ, có sự phân công trách nhiệm, đồng thời cũng có sự nương tựa vào nhau, bổ sung cho nhau làm thành một thế giới quan toàn diện, cần thiết cho con người phong kiến.
	Thời kỳ Lý - Trần, các vua và triều đình cùng một lúc coi trọng cả ba đạo, cùng một lúc sử dụng cả nhà nho, nhà sư và đạo sĩ. Họ đã tổ chức ra các kỳ thi tam giáo và dựa vào thái độ của họ, người đương thời đã đề xuất ra các lý thuyết "Tam giáo đồng nguyên", "Tam giáo đồng quy", "Tam giáo nhất nguyên"... Lý thuyết "Tam giáo đồng nguyên" còn được nêu lên mạnh mẽ ở thế kỷ XVIII. Đó không phải là điều ngẫu nhiên, mà có cơ sở trong nội dung mỗi đạo cũng như vị trí mỗi đạo trong thế giới quan người Việt Nam.
	Nho giáo, một học thuyết được giai cấp thống trị đề cao và thần thánh hoá, nhưng nó chỉ là học thuyết chính trị và đạo đức của giai cấp phong kiến. Trong nhiều phương diện hoạt động của con người, nó chỉ chú ý tới phương diện xã hội, trong nhiều mối quan hệ xã hội, nó chỉ chú ý đến quan hệ vua - tôi, cha - con, chồng - vợ. Bước vào lĩnh vực khác của đời sống xã hội, của sinh hoạt con người nó bỏ qua và tỏ ra bất lực.
	Lão giáo, một học thuyết yếm thế, chủ trương xã lánh sự phát triển của xã hội, quay về bắt trước giới tự nhiên, có vẻ như mâu thuẫn với chủ trương nhập thế của Nho giáo, với cách sống của nhà nho nhưng bao đời nay vẫn được con người phong kiến vin lấy, ngân nga tán thưởng. Chế độ phong kiến đã dầy vò con người, đã chà đạp lên tài năng của con người khiến cho những con người tích cựu nhất cũng phải rơi vào cảnh trầm luân để rồi phải lấy đạo Lão - Trang làm niềm an ủi cho mình. Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ .v.v.. tuy con đường hoạn lộ khác nhau, đóng góp cho xã hội khác nhau, nhưng cùng chung một hoàn cảnh là hướng vào đạo Lão lúc cuối đời.
	Nhưng đạo Nho và đạo Lão - Trang lảng tránh hoặc có thái độ hư vô chủ nghĩa đối với những vấn đề cơ bản có liên quan đến đời sống con người, như các vấn đề: sống chết, thọ yểu, phúc họa, sướng khổ... Chủ nghĩa tôn quân của đạo Nho cho rằng chưa biết việc sống làm gì phải biết việc chết, cho rằng thọ hay yểu là do số mệnh, phúc hay họa là do trời... Chủ nghĩa tương đối của đạo Lão - Trang cho rằng sống hay chết, thọ hay yểu là điều tự nhiên con người không cần can thiệp vào, còn về phúc hoạ thì cho rằng trong cái phúc có ẩn náu cái hoạ, trong cái hoạ có ẩn náu cái phúc... Tất cả những lý lẽ đó không đủ để thoả mãn những nhu cầu về mặt tâm lý cũng như nhận thức của người Việt Nam. Đạo Phật đã giành lấy một vai trò trong chỗ trống đó trong tinh thần người Việt Nam.
	Sự phân công giữa Nho và Phật trong thế giới quan người Việt hình như là điều tự nhiên. Thế mà điều tự nhiên này lại không được mấy ai suy xét đến ngọn nguồn. tuy nhiên Trần Thái Tông cũng đã nói: "Đại giác của đức Phật là phương diện dẫn dụ mọi bầy mê hoặc là đường tắt để tỏ rõ mọi lẽ tử sinh làm cán cân cho hậu thế, làm khuôn phép cho tương lai, đó là trọng trách của tiên thánh.".
	Sự lớn mạnh của Phật giáo, sự chi phối đời sống tinh thần toàn xã hội của Phật giáo đã khiến nhiều nhà nho trong lịch sử không hiểu được và thắc mắc. Lê Quát, một nho sĩ thế kỷ XIV phàn nàn rằng: " Nhà Phật lấy hoạ phúc để cảm lòng người, sao được người ta tin sâu bền thế? " (Đại việt sử ký toàn thư), Bùi Huy Bích một nho sĩ khác ở thế kỷ XVIII cũng phàn nàn rằng: "Nhà nhà mê hoặc vào thuyết báo ứng, người ở đâu thì lề Phật ở đấy" ( "Lừ trung tạp thuyết" của Bùi Huy Bích). Sự không hiểu được đó vì thái độ thành kiến và thói quen nhắm mắt trước hiện thực của nhà nho.
	Phật giáo, ngoài vấn đề thế giới quan của giai cấp phong kiến, còn là vấn đề của người dân bình thường, được quần chúng tự nguyện tin theo. Ngoài tính giai cấp ra, Phật giáo còn có tính quần chúng. Chính vì vậy, khi cuộc cách mạng xã hội nổ ra thì Nho và Lão - Trang không còn cơ sở tồn tại, nhưng Phật giáo vẫn còn sống dai dẳng.
chương iv
Giá trị và hạn chế của Phật giáo trong phương pháp tư duy của người Việt Nam.
Phật giáo là một tôn giáo, nhưng trong đó hai yếu tố tôn giáo và triết học quện vào nhau, làm cơ sở luận chứng cho nhau. ở đây, chúng ta chú ý tới yếu tố triết học. Về mặt này, Phật giáo đã có ảnh hưởng lớn tới phương pháp tư duy của người Việt Nam. Trong đó có những giá trị, đồng thời cũng có nhiều hạn chế.
Tiếp thu Phật giáo, tư duy người Việt có thêm một loạt khái niệm và phạm trù nói lên bản thể luận, nhận thức luận là những vấn đề cơ bản của triết học. Trong thế giới quan phức hợp nhiều thành phần của người Việt Nam thì Phật giáo là thành phần có ý nghĩa triết học nhiều nhất.
Hơn tất cả các học thuyết khác của Phương Đông, Phật giáo chú ý đến mặt phát triển tự nhiên của con người, đó là sinh, lão, bệnh, tử. Bốn chặng đó của cuộc đời phản ánh sự phát triển tất yếu của cơ thể con người, mà nếu ai đó nhận thức được thì sẽ không sợ hãi trước sự thay đổi của cuộc đời, thậm chí còn bình thản, lạc quan trước cái chết. Nhiều nhà sư trong thời Lý - Trần đã có một quan niệm như thế.
Phật giáo đề cập đến vấn đề ngũ uẩn: sắc, thụ, tưởng, hành, thức là những vấn đề có ý nghĩa nhận thức luận sâu sa. Tuy đối tượng của nhận thức đó là tâm và tính chất là duy tâm nhưng ở trong quá trình ngũ uẩn chứa đựng một quá tr

File đính kèm:

  • docT055.Doc