Tiểu luận Bản chất của phép biện chứng và sự phát triển của tư duy biện chứng
Bằng việc trình bày lịch sử phát triển của phép biện chứng trong triết học, có thể khẳng định: Xuyên suốt chiều dài lịch sử nhiều thế kỷ hình thành và phát triển từ phép biện chứng tự phát, thô sơ cổ đại cho đến phép biện chứng duy tâm Hêghen của triết học cổ điển Đức và đạt đến đỉnh cao là phép biện chứng duy vật mác - xít thì phép biện chứng luôn là công cụ sắc bén, là chìa khoá giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới để phục vụ nhu cầu chính bản thân con người.
Hiện nay, đất nước ta đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá, thì việc nghiên cứu phép biện chứng một cách có hệ thống, nhất là việc nắm vững các nguyên tắc và vận dụng những nguyên tắc cơ bản của phép biện chứng duy vật là một yêu cầu bức thiết để đổi mới tư duy, là định hướng tư tưởng và mang lại cho chúng ta công cụ tư duy sắc bén để đấu tranh chống lại tư duy siêu hình, bảo thủ lạc hậu và thực hiện thắng lợi mục tiêu XHCN của cách mạng nước ta.
học thuyết này cũng cho rằng chu trình vận động, biến dịch của vạn vật trong vũ trụ diễn ra theo nguyên lý phân đôi cái thống nhất như thái cực (thể thống nhất) phân đôi thành lưỡng nghi (âm dương). Sau đó âm dương lại tiến hành phân thành tự tượng là thái âm - thiếu, âm, thái dương - thiếu dương, từ tượng lại sinh ra bát quái, và trì đã bát quái sinh ra vạn vật. Tuy vậy, học thuyết âm dương vẫn còn những hạn chế Một là, học thuyết âm - dương phủ nhận sự phát triển biện chứng theo hướng đi lên vì học thuyết âm dương cho rằng sự vận động của vạn vật diễn ra theo chu kỳ lặp đi lặp lại và được đảm bảo bởi nguyên tắc cân bằng âm - dương cho rằng sự vận động của các hiện tượng chỉ dừng lại khi đạt được trạng thái cân bằng âm dương. Hai là trong học thuyết âm - dương còn nhiều yếu tố duy tân thần bí như quan điểm "thiên tôn địa lý" cho rằng trật tự sang hèn trong xã hội bắt nguồn từ trật tự của trời đất, học đem trật tự của xã hội gán cho giới tự nheien, rõ lại dựng hình thức bịa đặt để chứng minh cho sự hợp lý vĩnh viễn của chế độ đẳng cấp xã hội. Điều này phản khoa học. Tóm lại, học thuyết âm dương đã phản ánh rõ khuynh hướng duy vật và biện chứng à ra chỉ là tự phát. Nhưng thiếu số hạn chỉ của nó chỉ là do ở thời kỳ này khoa học vì tự nhiên chưa có và triết học chỉ là kết quả của quá trình khái quát hoá những kinh nghiệm thực tiễn lâu dài của nhân dân trung hoa. Trong thời cổ đại thì nền triết học Hy lạp là nền triết học có những phát hiện mới đối với phép biện chứng. Chính thời kỳnày của triết học Hy lạp thuật ngữ "biện chứng" ra đời. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ Hi lạp cổ đại là những thành tựu to lớn trong khoa học tự nhiên, văn hoá, nghệ thuật. Đặc biệt là khoa học tự nhiên như thiên văn học, vật lý cổ điển, toán học đã làm cơ sở cho sự phát triển và là nền tảng cho sự phát triển của triết học phương tây sau này. Nhà triết học điển hình cho nền triết học Hi lạp có tư tưởng biện chứng là: Heraclit (540-980 TCN). Theo sự đánh giá của Mác, Lênin thì Heraclit là người đã sáng tạo ra phép biện chứng. Ông cũng là người đầu tiên xây dựng phép biện chứng trên lập trường duy vật. Phép biện chứng của ông chưa được trình bày dưới dạng một hệ thống các luận điểm khoa học mà hai như các luận điểm quan trọng của ông về phép biện chứng được đề cập dưới dạng các câu danh ngôn mang tính thi ca và triết lý. Tư tưởng biện chứng của Heraclic thể thiếu trong 3 vấn đề sau: Một là quan niệm về sự vận động vĩnh cửu của vật chất. Theo ông thì khiông có sự vật, hiện tượng nào của thế giới đứng yên tuyệt đối, mà trái lại tất cả đều trong trạng thái biến đổi về chuyển hoá không ngừng. Tư tưởng này được thể hiện rõ trong hai câu danh ngôn. Chúng ta không thể tắm hai lần trên một dòng sông vì nước mới không ngừng chảy". và "ngay cả mặt trời cũng mỗi ngày một mốt" (Heraclit - giáo trình triết học Mác-Lênin - NXB CTQG) Heraclit lại đưa ra quan điểm là lửa chính là bản nguyên của thế giới, là cơ sở duy nhất và phổ biến nhất của tất cả mọi sự vật hiện tượng. Đồng thời cũng chính là gốc của vận động, tất cả các dạng khác nhau của vật chất chỉ là trạng thái chuyển hoá của lửa mà thôi. Đây là một hạn chế của Heraclit và bản chất của vật chất và vận động nhưng cũng chính nhờ quan điểm ấy mà Heraclit đã nhấn mạnh được tính vĩnh viễn và bất diệt của thế giới. Hai là, Heraclit nêu lên tư tưởng về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn trong mọi sự vật, hiện tượng. Điều đó thể hiện trong phỏng đoán về vai trò của những mặt đối lập trong biến đổi phổ biến của tự nhiên và "sự trao đổi của những mặt đối lập" về "sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập. Điều này thể hiện rõ qua câu nói của ông: "cùng một cái ở trong chúng ta sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già vì rằng cái này biến đổi thành cái kia và ngược lại, cái kia và ngược lại, cái kia biến đổi thành cái này." Heraclit cũng đã có những phỏng đoán đúng về sự đấu tranh và thống nhất của những mặt đối lập. Đánh giá về quan điểm thứ hai của Heraclit Lênin đã từng viết "phân đôi cái thống nhất của phép biện chứng. Điều này chúng ta đã thấy xuất hiện ngay từ nhà biện chứng Heraclit. Ba là theo Heraclit thì sự vận động phát biến không ngừng của thế giới do quy luật khách quan quy định, quy luật khách quan là trật tự khách quan là mọi cái đang diễn ra trong vũ trị, quy luật chủ quan là từ ngữ học thuyết của con người quy luật chủ quan phải phù hợp với quy luật khách quan. Người nào càng tiếp cận được quy luật khách quan bao nhiêu thì càng thông thái bấy nhiêu. Lý luận nhận thức của Heraclit mang tính biện chứng và duy vật sơ khai như cơ bản là đúng đắn. Trong suốt thời kỳ cổ đại ta thấy rằng không có hệ thống triết học nào có tư tưởng biến chứng sau như của Heraclit. Do vậy mà tư tưởng triết học của ông được nhà biện chứng cơ Điêu Đức và các nhà sáng lập nên chủ nghĩa Mác-Lênin đánh giá cao, như Các Mác và Ph Ăng ghen đã nói "Quan niệm về thế giới mới của nguyên thuỷ, ngây thơ nhưng căn bản đó cũng là quan điệm của các nhà Hy Lạp thời cổ và người trên diễn đạt được rằng quan niệm ấy là Heraclit. Các nhà triết học sau Heraclit tiếp tục kế thừa tư tưởng biện chứng của ông và phát triển nó nhưng thực sự chưa giải quyết được vấn đề bản chất của sự vận động và của vận động và của vật chất. Tóm lại, phép biện chứng thời cổ đại về căn bản là đúng nhưng chủ yếu mới dựa trên những phỏng đoán những trực kiến thiên tài. Phép biện chứng tự pháp thời cổ đại đã nhìn thấy bức tranh chung của thế giới trong sự tác động của nó. Vì vậy không thể tránh khỏi bị phủ định bởi các nền triết học về sau. b) Biện chứng thời trung đại Biện chứng thời trung đại hầu như không cố, đây là 1 lưu trần các sự phát triển phép biện chứng. ở phương đông vẫn chỉ duy trì phép biện chứng có được thời cổ đại thậm chí tại ấn Độ phận giá còn bị sụp đổ. Còn ở phương tây là sự bao trùm của lệnh viện phán khoa học. c) Phép biện chứng tây Âu thế kỷ XV - XVIII Suốt trong 4 thế kỷ (từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII) sự trưởng thành của tư tưởng biện chứng Tây Âu mang ý nghĩa độc đáo. Phép biện chứng trong thời kỳ kỳ phát triển dưới sự thống trị của tư duy siêu hình máy móc. Nói chung các nhà triết học thời kỳ này mang đậm tư duy siêu hình nhưng cũng có những tư tưởng biện chứng như tư tưởng về "sự phù hợp của các mặt đối lập" của Gioocdanơ Brunô (1548 -1600). Theo G.Brunô mọi cái đều liên hệ với nhau và đều vận động, kể từ các hạt vật chất nhỏ nhất - nguyên tử đến vô số thế giới của vũ trụ vô tận, cái này tiêu diệt cái kia ra đời. Ông cũng khẳng định rằng nếu không theo nguyên tắc "các mặt đối lập phù hợp với nhau" thì mọi nhà khoa học từ tự nhiên đến xã hội đều không làm việc được. Ngoài ra Brunô còn có những tư tưởng biện chứng của Ph.Bêcơn khẳng định vật chất không tách rời vận động, nhận thức bản chất của sự vật là nhận thức sự vận động của chúng. Ông là người đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn vật chất của thế giới. d) Phép biện chứng cổ điển Đức Đánh giá về nền triết học cổ điển Đức Lênin đã viết: Dù có sự thần bí hoá duy tâm, nhưng phép biện chứng cổ điển Đức đã đặt ra sự thống nhất giữa phép biện chứng và logic học và lý luận nhận thức. Trong các nền triết học trước C. Mác thì triết học cổ điển Đức có trình độ khái quát hoá và trừu tượng hoá cao với kết cấu hệ thống chặt chẽ, logic. Đây là tiến bộ của nền triết học Đức so với các nền triết học khác. Nền triết học cổ điển Đức bắt đầu từ Kantơ, đạt đỉnh cao ở Hêghen sau đó suy tàn ở triết học Phoiơbắc. Hêghen (1770 -1831) là nhà triết học cổ điển Đức là nhà biện chứng lỗi lạc. Phép biện chứng của ông là một tiền đề lý luận quan trọng của triết học Mácxit. Triết học của ông có ảnh hưởng rất mạnh đến tư tưởng của nước Đức và cả Châu Âu đương thời, triết học của ông được gọi là "tinh thần Phổ". Phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm tức là phép biện chứng về sự vận động và phát triển của các khái niệm được ông đồng nhất với biện chứng sự vật. Ông viết: "phép biện chứng nói chúng là nguyên tắc của mọi vận động, mọi sự sống và mọi hoạt động trong phạm vi hiện thực. Cái biện chứng là linh hồn của mọi nhận thức khoa học chân chính " 1). Luận điểm xuyên suốt trong hệ thống triết học của Hêghen là: "Tất cả cái gì là hiện thực đều là hợp lý và tất cả những gì hợp lý đều là tồn tại" 2). (Các Mác - Ănghen tuyển tập). Không những Hêghen là người đã có công trong việc phê phán tư duy siêu hình và là người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, xã hội và tư duy một cách biện chứng, có nghĩa là trong sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. Trong logic học, Hêghen không chỉ trình bày các phạm trù triết học như lượng - chất, vật chất - vận động mà còn đề cập đến các quy luật khác như lượng đổi dẫn đến chất đổi, quy luật phủ định biện chứng. Nhưng tất cả chỉ là những quy luật vận động, phạm trù của tư duy hoặc chỉ là những khái niệm. Khi nghiên cứu xã hội, Hêghen đã rút ra những khẳng định đúng đắn như: một là sự phát triển cuả xã hội là sự đi lên, hai là quá trình phát triển của lịch sử có tính kế thừa, lịch sử là tính thống nhất giữa tính khách quan và chủ quan trong hoạt động của con người. Có thể khẳng định rằng Hêghen đã có công xây dựng một hệ thống các phạm trù và quy luật của phép biện chứng như là những công cụ của tư duy biện chứng. Mặc dù trong hệ thống triết học của Hêghen chứa đựng những tư tưởng biện chứng sâu sắc thì cách trình bày của ông lại mang tính duy tâm bảo thủ, thể hiện ở: Sự vận động của xã hội là do sự vận động của tư duy (ý niệm tuyệt đối) sinh ra. Do đó mà C.Mác gọi phép biện chứng của Hêghen là: "Phép biện chứng đi lộn đầu xuống đất". Do vậy, đặt nó đứng bằng hai chân trên mảnh đất hiện thực, nghĩa là trên quan điểm duy vật. 2. Phép biện chứng Mác - xit a) Điều kiện ra đời của phép biện chứng duy vật Sự ra đời của phép biện chứng duy vật gắn liền với sự ra đời của chủ nghãi Mác. Nó ra đời trong điều kiện phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đang phát triển, dựa trên các tiền đề sau: Tiền đề thực tiễn rất quan trọng cho sự ra đời của phép biện chứng duy vật là sự phát triển của
File đính kèm:
- T108.doc