Tiểu luận Áp dụng thực tiễn quản lý trong quan hệ con người vào điều kiện các doanh nghiệp Việt Nam
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 2
Chương I: Cách nhìn tổng thể về thuyết con người 3
1. Bản chất con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội 3
2.Người lao động là yếu tố quyết định lực lượng sản xuất 4
3. Vai trò của con người trong các Doanh nghiệp Việt Nam hiện nay 5
4. Mục đích của tạo động lực người lao động trong các Doanh nghiệp 7
Chương II. Áp dụng thực tiễn quản lý trong quan hệ con người vào điều kiện các doanh nghiệp Việt Nam 8
1. Thực trạng về quan hệ con người trong các doanh nghiệp nước ta 8
2. Giải pháp chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong Doanh nghiệp 10
Kết luận 13
Tài liệu tham khảo 14
iệu, năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt. Điều đó chứng tỏ trong quá trình sử dụng con người còn tiếp tục tác động đến máy móc và bằng cả thể lực và trí lực. - Con người cũng luôn luôn cải tạo đối tượng lao động. Trong buổi bình minh của lịch sử, lực lượng lao động sản xuất còn thấp kém, con người dựa chủ yếu vào những đối tượng lao động do tự nhiên cung cấp sẵn. Sản xuất càng phát triển, nhận thức cảu con người càng lớn lên, phương tiện và công cụ lao động càng tiến bộ thì các đối tượng lao động nhân tạo càng chiếm tỷ lệ cao hơn những đối tượng có sẵn trong tự nhiên. Như vậy con người là chủ thể sáng tạo là chủ thể sử dụng mọi yếu tố của lực lượng sản xuất. Con người là yếu tố năng động nhất, quyết định lực lượng sản xuất. Bởi vì chỉ có yếu tố con người mới có trí tuệ và cũng chỉ có yếu tố con người mới có năng lực tự phát triển và tự hoàn thiện mình. Người lao động không chỉ sinh con, tái sản xuất ra sức lao động, mà còn luôn nâng cao chất lượng của lao động bằng con đường kế thừa các yếu tố xã hội và phát triển chúng. Con người làm ra lực lượng sản xuất đến đâu thì đồng thời cũng tự nâng cao năng lực sản xuất của mình đến đó. Có thể nói, con người là chủ thể và là động lực chủ đạo quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất. Con người là một trong những yếu tố của lực lượng sản xuất, nhưng là yếu tố cơ bản nhất, là chủ thể quyết định. Không có con người thì không có quá trình sản xuất. 3. Vai trò của con người trong các Doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Xét về người lao động: Việc tăng thêm thu nhập cải thiện điều kiện sống, bù đắp các hao phí lao động mà người lao động đã bỏ ra, phát triển hoàn thiện cá nhân, tạo cơ hội thuận lợi cho cá nhân tham gia các hoạt động xã hội (vui chơi, giải trí) trau đồi để nâng cao hiểu biết, phát huy năng lực sẵn có của mình cho công việc, cho doanh nghiệp và cho xã hội. Xét về Công ty: Nó tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty trong việc khai thác nguồn lực sắn có của mình. Sử dụng hiệu quả của nó để không ngừng nâng cao năng suất lao động, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, giảm chi phí lao động sống trong sản phẩm, qua đó giảm giá thành, giá bán sản phẩm, thúc đẩy cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Xét về xã hội: Khi động lực người lao động được phát huy làm cho năng xuất lao động xã hội được tăng lên, từ đó nền kinh tế xã hội sẽ tăng trưởng theo. Đồng thời khi đó con người khi đó con người sẽ cảm thấy yêu thích lao động , cảm thấy vui khi được lao động, lúc đó xã hội sẽ phát triển và văn minh hơn. Trong quá trình sản xuất con người tác động đến các sự vật, hiện tượng của giới tự nhiên, mà các sự vật hiện tượng ấy lại bị chi phối bởi rất nhiều quy luật khách quan. Các quy luật đó có tính tất yếu và không phải khi nào cũng chiều theo ý muốn chủ quan của con người. Con người bằng ý thức chủ quan thuần tuý không thể tạo ra hay huỷ bỏ được các quy luật của thế giới khách quan nhưng lại có khả năng hiểu thấu các quy luật đó để vận dụng vào hoạt động thực tiễn làm hạn chế những mặt tiêu cực, có hại, phát huy những mặt tích cực, có lợi của một loại quy luật nào đó. Con người có khả năng nhận thức thế giới khách quan và phát triển quá trình ấy đến mức hình thành các lĩnh vực khoa học. Khoa học khi được vận dụng vào thực tiễn, đã giúp con người làm tăng sức mạnh, sử dụng những sức mạnh tự phát của tự nhiên một cách có hiệu quả để sản xuất ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội. Nếu không có sự phát triển của khoa học và việc vận dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, làm cho con người có thể đắp đập, ngăn sông để làm ra thuỷ điện, tạo ra các năng lượng hạt nhân Khi khoa học còn ở trình độ thấp, lực lượng sản xuất và kỹ thuật,v công nghệ còn kém phát triển, thì khoa học tác động tới sản xuất còn yếu. Khi sản xuất, khoa học và kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, thì khoa học tác động đến sản xuất càng mạnh mẽ và có hiệu quả hơn. Đấy chính là điều kiện để khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. 4. Mục đích của tạo động lực người lao động trong các Doanh nghiệp. Xét về chức năng thì tạo động lực là chức năng về quản lý con người, quản lý con người lại là một chức năng trong quản trị doanh nghiệp. Do vậy mục đích của tạo động lực cũng chính là mục đích chung của doanh nghiệp về quản lý lao động. Mục đích quan trọng nhất của tạo động lực là chức năng về quản lý con người, quản lý con người lại là một chức năng trong quản trị doanh nghiệp. do vậy mục đích của tạo động lực cũng chính là mục đích chung của doanh nghiệp về quản lý lao động. Mục đích quan trọng nhất của tạo động lực là sử dụng một cách hợp lý nguồn lao động, khai thác một cách hiệu quả nguồn lực con người nhằm nâng cao năng suất lao động của doanh nghiệp. Trong mỗi doanh nghiệp thì nguồn lực con người là một bộ phận quan trọng của sản xuất, nó vừa đóng vai trò là chủ thể của sản xuất nhưng đồng thời lại là khách thể chịu tác động của người quản lý. Nguồn lực con người vừa là tài nguyên của doanh nghiệp vừa là một khoản chi phí lớn cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào nâng cao biện pháp sử dụng hiệu quả nguồn lực lao động thì sẽ kéo theo được hiện quả trong sử dụng may móc thiết bị, tiết kiệm vật chất, giảm chi phí, từ đó hiệu quả kinh doanh sẽ cao hơn. Mục đích khác của tạo động lực thu hút và gắn bó người lao động với doanh nghiệp. Bởi khi người lao động có động lực làm việc thì họ sẽ say mê với công việc, nghề nghiệp làm tăng thêm những điểm tốt cho doanh nghiệp. Nhờ vậy người lao động không chỉ gắn bó với doanh nghiệp mà nhiều đối tượng khác cũng muốn làm việc cho doanh nghiệp. Chương II : áp dụng thực tiễn quản lý trong quan hệ con người vào điều kiện các doanh nghiệp Việt Nam 1. Thực trạng về quan hệ con người trong các Doanh nghiệp nước ta. Đất nước ta đang xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội trên cơ cở kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới, đáp ứng với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, thì việc phát triển nguồn nhân lực (phát triển giáo dục) là yêu cầu bức xúc và cần được quan tâm hàng đầu. Với nhận thức đó, Đại hội Đảng VIII đã xác định: "Lấy việc phát huy nguồn lực con người cho sự phát triển nhanh và bền vững" và sự phát triển nguồn nhân lực phải được coi là mục đích cuối cùng, cao nhất của quá trình phát triển. Trong những năm qua chúng ta đã cố gắng nâng cao hiệu quả nguồn nhân lực, sang mức độ đạt được còn thấp so với yêu cầu: * Những mặt đạt được: Có thể nói, Nhà nước Việt Nam rất chú ý đến phát triển giáo dục và thành công trong việc thiết lập hệ thống giáo dục trong phạm vi cả nước. Hệ thống giáo dục ngày càng phong phú, quy mô giáo dục không ngừng mở rộng, phát triển ở các vùng, các ngành học và các cấp học. Nhìn vào số lượng hiện có, với hơn 100 trường đại học, cao đẳng, kể cả đại học dân lập, với quy mô đào tạo gần 600.000 sinh viên, có nhiều khoa, bộ môn, ngành nghề mới hình thành... chúng ta thấy đào tạo đại học đã có một bước phát triển khá nhanh, nhất là trong 10 trở lại đây cùng với những cố gắng bền bỉ của đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ giảng dạy và sinh viên. Có thể nói, đây là thời điểm "nở rộ" của phát triển số lượng đào tạo đại học. Hình thức đào tạo đại học và cao đẳng nước ta khá phong phú, có khoảng 66% số sinh viên theo học hệ chính quy tập trung, số còn lại học các hệ đại học cao đẳng tại chức, ngắn hạn. Mỗi năm có khoảng 20 ngàn sinh viên cao đẳng, đại học tốt nghiệp hệ chính quy. Hiện tại Việt Nam có hơn 700 ngàn người có trình độ đại học cao đẳng trở lên. Tỷ lệ sinh viên đại học trong độ tuổi đi học của Việt Nam là 2,3-2,5%. Tỷ lệ này còn hơn mức 2% của Trung Quốc, nhưng thấp hơn mức 16% của Thái Lan, 1% của Inđônêxia, 18% của Philipin và 40% của Hàn Quốc. * Những mặt yếu kém: - Lao động có chuyên môn kỹ thuật vừa thiếu về số lượng, vừa kém về chất lượng, bất hợp lý về cơ cấu: Hiện nay, cả nước ta có 40 triệu lao động trong đó lực lượng lao động trẻ có 26 triệu (chiếm trên 50%). Đây là vốn quý nhưng lại nhiều bất cập về phân bổ, cơ cấu và trình độ. Tỷ lệ lao động qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật chỉ chiếm 12% trong tổng số trong công nghiệp và xây dựng. Công nhân bậc cao chiếm hơn 4%. Tình trạng này đã và đang hạn chế việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ vào thực tiễn sản xuất. Tỷ lệ lao động kỹ thuật chỉ chiếm 13,3% lực lượng lao động với cơ cấu là: 1 cao đẳng, đại học và trên đại học - 1,6 trung học chuyên nghiệp - 3,6 công nhân kỹ thuật (thể hiện ở bảng). Theo kinh nghiệm của các nước phát triển thì tỷ lệ trên phải đạt mức 1-1-10 thì mới đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế. So với thời kỳ trước đổi mới, số học sinh các trường trung học chuyên nghiệp và các trường dạy nghề vẫn tiếp tục giảm đi nhanh chóng. Năm học 1996-1997 cả nước có 156 ngàn học sinh trung học chuyên nghiệp từ năm học 1995-1996 con số này là 116,4 ngàn (giảm 25,4%). Từ năm 1991-1992 cho đến nay, số lượng này có tăng nhưng mức tăng không đáng kể. Trong khi đó, số lượng sinh viên cao đẳng và đại học bắt đầu tăng lên từ năm học 1992-1993, đặc biệt tăng nhanh vào những năm gần đây. Năm học 1995-1996 số sinh viên cao đẳng số sinh viên cao đẳng là 173,1 ngàn, tăng 26,4 so với 1994-1995 và 62,7% so với 1990-1991. Như vậy, tương quan trong cac cấp học đã thay đổi một cách căn bản. Trong khi sinh viên cao đẳng, đại học tăng lên nhanh thì số học sinh trung học chuyên nghiệp và dạy nghề không tăng hoặc tăng không đáng kể. Đó là một vấn đề bất hợp lý vì trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nhiều ngành cần có nhu cầu đào tạo lại nghề và đào tạo nghề mới. - Chất lượng giáo dục chưa đáp ứng kịp với yêu cầu: Phải khẳng định rằng người Việt Nam không thua kém các nước khác. Điều đó đã được chứng minh qua các kỳ thi Olympic quốc tế và toán học, tin học, vật lý... đoàn Việt Nam từ trước đến nay bao giờ cũng chiếm giải cao trong các kỳ thi. Song do phương tiện học tập nghèo nàn, trường lớp thiếu, đời sống giáo viên khó khăn, ngân sách dành cho giáo dục còn hạn chế đã làm cho chất lượng giáo dục nói chung ở các cấp học của
File đính kèm:
- T035.Doc