Tham luận: Áp dụng phương pháp bàn tay nặn bột trong giảng dạy các môn KHTN ở trường THCS - Phạm Thị Đan
II. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
* Với HS:
- Đa số học sinh hứng thú với giờ học, làm việc nhiều hơn, suy nghĩ, trình bày quan điểm nhiều hơn, hiểu bài và nhớ bài nhanh hơn, lâu hơn.
- Tự tin và chủ động hơn trong học tập, và rèn dược nhiều kĩ năng bộ môn, hình thành và phát triển nhiều kĩ năng sống.
- Bước đầu sử dụng được vở thực hành, vở ghi chép của cá nhân.
* Với GV:
- GV hoạt động nhiều hơn, phải lường trước nhiều tình huống hơn do mỗi đối tượng học sinh ở từng lớp học khác nhau mang lại, do đó GV phải học tập nhiều hơn, mất sức ì và sự nhàm chán do có không thể lặp đi lặp lại một giáo án cho nhiều lớp học khác nhau và nhiều năm học khác nhau.
- Số giờ dạy có áp dụng PPBTNB có chiều hướng tăng.
* Bên cạnh đó còn rất nhiều hạn chế: Một số HS tiếp thu chậm hoạt động còn lúng túng, kết quả học tập chưa cao. Một số còn ngại bộc lộ quan điểm gây mất thời gian cho giờ học Nhiều giờ dạy quá 45’ qui định Số lượng giờ dạy chưa tương xứng với tiềm năng của GV
IV. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN:
1. Thuận lợi:
- Được các cấp lãnh đạo chỉ đạo sát sao.
- Toàn thể giáo viên và học sinh tích cực hưởng ứng.
- CSVC nhà trường tương đối đủ phục vụ cho dạy và học.
2. Khó khăn:
2.1 Chương trình SGK:
- Nặng về lí thuyết.
- Chưa được biên soạn theo phương pháp dạy học mới nên GV khi dạy theo chủ đề sẽ phải trở thành người biên soạn sách. SGK đã có trước nội dung KT HS cần tìm hiểu, HS có thể đã đọc trước ở nhà nên việc dạy sẽ gặp khó khăn.
THAM LUẬN: “Áp dụng phương pháp bàn tay nặn bột trong giảng dạy các môn KHTN ở trường THCS. PP BTNB Là phương pháp dạy học khoa học dựa trên cơ sở của sự tìm tòi - nghiên cứu, áp dụng cho việc dạy học các môn khoa học tự nhiên. Theo phương pháp BTNB, dưới sự giúp đỡ của GV, chính HS tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra để từ đó hình thành kiến thức cho mình. Mục tiêu của phương pháp BTNB là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá và say mê khoa học của HS. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, phương pháp BTNB còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua ngôn Đây là phương pháp dạy học mới, đã bước đầu được áp dụng trong dạy học các môn khoa học tự nhiên ở trường THCS Hoàng Quế. Trong những năm gần đây, bản thân tôi tham gia công tác chỉ đạo tổ chuyên môn áp dụng phương pháp này vào giảng dạy, đổng thời là giáo viên trực tiếp đứng lớp dạy các bài học có áp dụng pp BTNB. Trong hội nghị này, tôi xin được trình bày một số kinh nghiệm về việc áp dụng PP BTNB trong giảng dạy các môn khoa học tự nhiên ở trường THCS Hoàng Quế: I/ MỘT SỐ KINH NGHIỆM: 1.Công tác chỉ đạo: - Tập huấn cho giáo viên trong tổ: Thực hiện chỉ đạo của chuyên môn trường, 100% các thành viên trong tổ tham gia tập huấn sử dụng pp BTNB. - Tổ chức nghiên cứu cơ sở lí luận của phương pháp BTNB, Nghiên cứu giáo án mẫu, bài giảng mẫu: + Phân công giáo viên tìm tài liệu: PPBTNB, BTNB sinh học, BTNB với môn hóa học, vật lí học. + Chỉ đạo sinh hoạt tổ chuyên môn, nhóm chuyên môn học tập, trao đổi những hiểu biết về phương pháp BTNB. Chỉ đạo các nhóm chuyên môn thảo luận, xây dựng kế hoạch thực hiện: + Nghiên cứu, chọn nội dung kiến thức hay bài học phù hợp để áp dung ppBTNB, Cá nhân đăng kí các bài hay nội dung kiến thức áp dụng PPBTNB giảng dạy trong năm. + Các nhóm xây dựng chuyên đề tổ: tiến hành dạy các bài mẫu. Thông qua chuyên đề, rút kinh nghiệm và vận dụng vào giảng dạy thường xuyên trên lớp. Chỉ đạo các tổ viên tăng cường dự giờ những tiết dạy áp dụng PP BTNB, rút kinh nghiệm cho nhau để áp dụng ngày càng có hiệu quả PP mới này. Thường xuyên khích lệ, động viên các thành viên trong tổ áp dụng PP BTNB bằng nhiều hình thức: lấy đó làm một tiêu chí trong thi đua khen thưởng, Cộng 2 điểm khi đánh giá, xếp loại giờ dạy có áp dụng PP BTNB. Báo cáo thương xuyên việc áp dụng PP BTNB về chuyên môn trường để nhận được sự chỉ đạo sát sao, kịp thời nhất. Cuối các học kì tổ tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm việc áp dụng PP BTNB, điều chỉnh việc thực hiện áp dụng phương pháp này trong thời gian tiếp theo. Việc thực hiện của giáo viên trong tổ: Trọng tâm là áp dụng với các môn khoa học tự nhiên: Hóa, Sinh, Vật lí, công nghệ. Từ việc tổng kết ý kiến của các GV trực tiếp trực tiếp giảng dạy và rút kinh nghiệm qua các tiết dạy của bản thân Tôi xin trình bày một số kinh nghiệm dạy hoạc áp dụng PP BTNB có hiệu quả như sau: + Hiểu rõ lí luận của pp BTNB: Ít nhất cần: Hiểu được PPBTNB là gì ? Nắm chắc 10 Nguyên tắc cơ bản trong PP BTNB: Hiểu và vận dụng dược 12 kĩ thuật dạy học: + Xây dựng kế hoạch chi tiết: Chọn bài, nội dung kiến thức để áp dụng PP BTNB. Xây dựng kế hoạch dạy học: Sọan giáo án , chuẩn bị thiết bị dạy học, phòng học.. Quyết đinh sự thành công và chất lượng giờ dạy. + Rút kinh nghiệm sau mỗi tiết dạy của bản thân và đồng nghiệp để điều chỉnh ở những bài dạy kế tiếp. Cách thực hiện có hiệu quả cao 5 bước của tiến trình dạy học: Bước 1: Tình huống xuất phát GV nên: Chuẩn bị một tình huống mở có liên quan đến vấn đề khoa học đặt ra. Căn cứ vào nội dung khoa học của bài học, chọn khái niệm chủ chốt cần hình thành, dựa trên những tình huống gần gũi quen thuộc với HS để làm tình huống xuất phát. Cũng có thể bắt đầu từ một hiện tượng phổ biến trong tự nhiên hay từ một thí nghiệm đơn giản để làm tình huống xuất phát. Bước 2: Bộc lộ quan niệm ban đầu của học sinh Làm bộc lộ quan niệm ban đầu hay biểu tượng ban đầu của HS để từ đó hình thành các câu hỏi hay các giả thuyết của HS là bước quan trọng, đặc trưng của phương pháp BTNB. Trong bước này, GV khuyến khích HS nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình về sự vật, hiện tượng mới trước khi được học kiến thức đó. Khi yêu cầu HS trình bày quan niệm ban đầu, GV có thể yêu cầu bằng nhiều hình thức biểu hiện của HS như: bằng lời nói, viết hay vẽ để biểu hiện suy nghĩ. GV cần hướng dẫn và có thể giúp HS sửa chữa, phát biểu lại các câu hỏi để đảm bảo đúng nghĩa, tập trung vào lĩnh vực khoa học và tạo điều kiện cho việc nâng cao khả năng diễn đạt nói của HS; Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm. - Đề xuất câu hỏi: Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu của HS, GV giúp HS đề xuất câu hỏi từ khác biệt đó. Chú ý xoáy sâu vào những sự khác biệt liên quan đến kiến thức trọng tâm của bài học. - Đề xuất phương án thực nghiệm nghiên cứu: Từ các câu hỏi được đề xuất, GV nêu câu hỏi cho HS đề nghị các em đề xuất thực nghiệm tìm tòi nghiên cứu để tìm câu trả lời cho các câu hỏi đó. Sau khi HS đề xuất phương án thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, GV nêu nhận xét chung và quyết định tiến hành phương pháp thí nghiệm đã chuẩn bị sẵn. Trường hợp HS không đưa ra được phương án thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu thích hợp, GV có thể gợi ý hay đề xuất cụ thể phương án nếu gợi ý mà HS vẫn chưa nghĩ ra. Có nhiều phương pháp như: quan sát, thực hành - thí nghiệm, nghiên cứu tài liệu, Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu Từ các phương án thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu HS đã nêu, GV khéo léo nhận xét và lựa chọn dụng cụ thí nghiệm hay các thiết bị dạy học thích hợp để HS tiến hành nghiên cứu. GV cần chú ý hướng dẫn HS quan sát nhằm kiểm chứng các ý tưởng nghiên cứu được đề xuất. Quản lí tốt các ghi chép cá nhân của HS. Trợ giúp HS phương pháp trình bày kết quả Bước 5: Kết luận và hợp thức hóa kiến thức Sau khi thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, các câu trả lời dần dần được giải quyết, các giả thuyết được kiểm chứng, kiến thức được hình thành, GV có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để HS ghi vào vở coi như là kiến thức của bài học. Ngoài ra, Gv cần: Giúp HS lựa chọn các lí luận và hình thành kết luận. Đề nghị một tình huống ngược lại. II. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC: * Với HS: - Đa số học sinh hứng thú với giờ học, làm việc nhiều hơn, suy nghĩ, trình bày quan điểm nhiều hơn, hiểu bài và nhớ bài nhanh hơn, lâu hơn. - Tự tin và chủ động hơn trong học tập, và rèn dược nhiều kĩ năng bộ môn, hình thành và phát triển nhiều kĩ năng sống. - Bước đầu sử dụng được vở thực hành, vở ghi chép của cá nhân. * Với GV: - GV hoạt động nhiều hơn, phải lường trước nhiều tình huống hơn do mỗi đối tượng học sinh ở từng lớp học khác nhau mang lại, do đó GV phải học tập nhiều hơn, mất sức ì và sự nhàm chán do có không thể lặp đi lặp lại một giáo án cho nhiều lớp học khác nhau và nhiều năm học khác nhau. - Số giờ dạy có áp dụng PPBTNB có chiều hướng tăng. * Bên cạnh đó còn rất nhiều hạn chế: Một số HS tiếp thu chậm hoạt động còn lúng túng, kết quả học tập chưa cao. Một số còn ngại bộc lộ quan điểm gây mất thời gian cho giờ họcNhiều giờ dạy quá 45’ qui địnhSố lượng giờ dạy chưa tương xứng với tiềm năng của GV IV. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN: Thuận lợi: Được các cấp lãnh đạo chỉ đạo sát sao. Toàn thể giáo viên và học sinh tích cực hưởng ứng. CSVC nhà trường tương đối đủ phục vụ cho dạy và học. Khó khăn: Chương trình SGK: Nặng về lí thuyết. Chưa được biên soạn theo phương pháp dạy học mới nên GV khi dạy theo chủ đề sẽ phải trở thành người biên soạn sách. SGK đã có trước nội dung KT HS cần tìm hiểu, HS có thể đã đọc trước ở nhà nên việc dạy sẽ gặp khó khăn. 2.2 Cơ sở vật chất: Bàn ghế kê theo hàng nên GV mất nhiều thời gian chuẩn bị phòng học để dạy. Đồ dùng phục vụ dạy học theo phương pháp này thiếu tính đồng bộ, một số không có hoặc có nhưng thiếu chính xác. 2.3 Những khó khăn khác: - Về̀ học sinh: Do ít được học tập theo Phương pháp “bàn tay nặn bột” nên các em rất lúng túng trong hoạt động, các em ngại bộc lộ quan niệm ban đầu, chưa dám đề xuất ra các câu hỏi, phương án thí nghiệm kiểm chứng vì sợ sai. Khả năng nhận thức của học sinh là không đồng đều, có sự chênh lệch rất lớn do đó thời gian thực hiện cho hoạt động có sử dụng PP BTNB là tương đối nhiều, các giờ có sử dụng PP thường thiếu thời gian. - GV chưa được tập huấn bài bản, kĩ lưỡng. Những hiểu biết về phương pháp chủ yếu là do tự tìm hiểu và tự trao đổi nhóm mà cónên việc biến 5 qui trình dạy học trong lí luận thành 5 qui trình trong giáo án cụ thể vào 1 môn, 1bài hay một mô đun kiến thức thật sự không dễ dàng. Chưa kể đến việc dạy học theo 5 quy trình đó. V. KIẾN NGHỊ: + Từ những khó khăn trên, tôi rất mong muốn sớm có những vấn đề sau: SGK được biên soạn phù hợp. CSVC được trang bị đáp ứng tối thiểu yêu cầu dạy học theo PP mới này. Các cấp lãnh đạo tổ chức tập huấn nhiều hơn với chất lượng cao hơn cho GV, đặc biệt là những GV trực tiếp giảng dạy. + Thông qua hội nghị này, tổ chúng tôi rất mong sự đánh giá góp ý bổ sung của các đồng chí giáo viên trong trường,ý kiến chỉ đạo của các cấp lãnh đạo để việc áp dụng Phương pháp “bàn tay nặn bột” vào dạy học đạt hiệu quả cao hơn nữa. Tôi xin trân thành cảm ơn các Vị đại biểu và các đồng chí đã lắng nghe. Cuối cùng xin được kính chúc các vị đại biểu mạnh khỏe, công tác tốt, chúc hội nghị thành công tốt đẹp. Hoàng Quế ngày 28 tháng 9 năm 2014 Người viết tham luận Phạm Thị Đan
File đính kèm:
- tham luan pp BTNB.doc